Luận Văn Đánh giá hiện trạng và đề xuất giải pháp giảm thiểu sự phát thải hợp chất ô nhiễm hữu cơ bền (POPs)

Thảo luận trong 'Môi Trường' bắt đầu bởi Bống Hà, 2/6/13.

  1. Bống Hà

    Bống Hà New Member

    Bài viết:
    5,424
    Được thích:
    2
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu

    CHƯƠNG 1 - MỞ ĐẦU
    1.1. Giới thiệu chung về đề tài

    Cùng với nhịp độ phát triển của đất nước, vấn đề quản lý CTNH đang là vấn đề rất được quan tâm hiện nay tại Thành phố Hồ Chí Minh do lượng CTNH gia tăng theo hoạt động sản xuất, sinh hoạt. Trong đó, đặc biệt là sự phát thải hợp chất ô nhiễm hữu cơ bền (POPs) – nguồn thải có ảnh hưởng trực tiếp môi trường và sức khỏe con người. Trong thời gian gần đây, ở các nước thuộc khu vực Đông Nam Á và Nam Thái Bình Dương: cụ thể như Úc, Campochia, Indonexia, Lào, Malayxia, New Zealand, Philipin, Singapo, Thái Lan và Việt Nam đã tiến hành nghiên cứu sự tồn lưu cũng như sự phát thải POPs vào môi trường. Kết quả nghiên cứu, khảo sát cho thấy rằng vẫn còn một lượng POPs tồn lưu trong môi trường, điển hình là các loại thuốc trừ sâu (trong đó có DDT), PCB (Polychlorinatedbiphenyl), PAH, furan, Dioxin .
    Ở Việt Nam, theo thống kê của Bộ Tài Nguyên – Môi trường đến nay các Tỉnh thành trong cả nước đều tồn lưu một khối lượng lớn các loại POPs, trong đó có DDT, Dioxin, dầu biến thế chứa PCB và các chất tương tự như PCB. Trên cơ sở đó có thể nói rằng tình hình thải bỏ, tồn lưu đang rất đáng báo động, gây ô nhiễm môi trường từ các hợp chất POPs. Việt Nam đã tham gia phê chuẩn công ước Stockholm ngày 22/07/2002 và hiện nay trong chiến lược bảo vệ môi trường của thành phố, chương trình quản lý CTNH đến năm 2020 đã đặt mục tiêu ưu tiên đánh giá hiện trạng các chất ô nhiễm hữu cơ bền. Từ đó, đề xuất chiến lược giảm thiểu sự phát tán vào môi trường.
    Một trong những nguồn phát thải hợp chất POPs hiện nay trên địa bàn Tp. HCM là từ quá trình đốt chất thải nguy hại. Nguồn thải này gia tăng cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội của thành phố. Tp. HCM là một trong những nơi phát thải rác nguy hại lớn nhất của cả nước, chính vì vậy trong khu vực này số lượng cc lị đốt ngày một nhiều. Chính vì lý do trên, đòi hỏi cần phải có sự đầu tư về công nghệ và nâng cao kiến thức vận hành giảm bớt khả năng phát thải ra môi trường của hợp chất POPs.
    Nhìn chung, việc giải quyết hiện trạng phát sinh và có kế hoạch quản lý quy trình thải bỏ POPs từ quá trình đốt vào môi trường là vấn đề khó khăn và nan giải. Khó khăn trên xuất phát từ việc rất khó xác định, định lượng chính xác khối lượng phát thải được xử lý bằng phương pháp đốt. Xong cần có biện pháp cải thiện trình độ công nghệ theo hướng bảo vệ môi trường và có kế hoạch quản lý chặt chẽ qui trình vận hành để kiểm soát các thông số vận hành phù hợp với tiêu chuẩn xả thải ra môi trường. Hiện tại, những hậu quả nghiêm trọng của việc phát thải các hợp chất POPs qua hình ảnh những em bé nhiễm dioxin hay căn bệnh ung thư ngày càng gia tăng do quá trình tích lũy các hóa chất độc hại trong thực phẩm, môi trường sống,
    1.2. Ý nghĩa của đề tài
    Chất thải rắn bao gồm nhiều loại khác nhau từ những CTNH cho đến CTKNH. Bên cạnh nguồn CTNH phát sinh từ quá trình sản xuất công nghiệp còn có chất thải y tế, thi thể, .là những nguồn thải cần có biện pháp xử lý triệt để. Một trong những dạng hợp chất gây ô nhiễm nguy hiểm và tồn tại lâu dài trong môi trường là các hợp chất hữu cơ bền (Persistant Organic Pollutants - POPs). Tất cả những hợp chất này vô cùng bền vững, tồn tại lâu dài trong môi trường, có khả năng tích lũy sinh học trong nông sản, thực phẩm và trong nguồn nước gây ra hàng loạt bệnh nguy hiểm đối với con người. Điều cần quan tâm là hậu quả của chúng có thể gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến con người và môi trường sống. Đã có rất nhiều minh chứng cho rằng POPs có thể phát tán đi rất xa, tồn lưu và tích tụ trong chuỗi thực phẩm cũng như trong mô của tế bào động vật. Cũng chính vì thế, chúng được xem là loại hoá chất độc hại. Các loại hợp chất điển hình thuộc nhóm POPs như là PCBs, Dioxins, PAHs, Aldrin, Dieldrin, DDT, Endrin, Chlordane, Hexachlorobenzene, Mirex, Toxaphene và Heptachlo.
    Các hợp chất POPs phát thải từ quá trình xử lý CTNH bằng phương pháp thiêu đốt ở nhiệt độ cao. Tuy nhiên, các thiết bị đốt có giá thành rất đắt, vượt quá khả năng về tài chính cho nên phần lớn lượng rác thải được đốt thủ công. Đây là một trong những nguyên nhân sinh ra Dioxin và một số khí thải độc hại trong quá trình đốt. Gần đây, nhiều lò đốt trong nước và nhập khẩu từ nước ngoài đã giải quyết được vấn đề chất thải y tế, thi thể và rác thải công nghiệp nguy hại của Thành Phố.
    Tuy nhiên, việc đầu tư cho lò đốt không đầy đủ, quá trình vận hành không đảm bảo an toàn, nhiều thông số không được kiểm soát chặt chẽ nên khả năng phát thải các hợp chất POPs đặc biệt Dioxin/Furan. Đối với môi trường và con người, hậu quả của việc nhiễm Dioxin có thể kể đến là những ảnh hưởng lên sức khoẻ sinh sản, tác động lên hệ miễn dịch, gây bệnh tiêm mạch, gây rối loạn thần kinh, quái thai, dị tật, rối loạn hành vi, và nhiều căn bệnh ung thư khó xác định phương pháp điều trị triệt để.
    1.2.1. Tính khoa học
    Đề tài được thực hiện là một vấn đề khá mới trong điều kiện nghiên cứu của thành phố nói riêng và cả nước nói chung, nên trong quá trình thực hiện đồ án, tài liệu tham khảo đa phần là của những nghiên cứu trong nước gần đây và nhiều nước trên thế giới. Ngoài ra đồ án còn nhận được sự đóng góp ý kiến của các Thầy/Cô trong lĩnh vực môi trường, Thầy/Cô trong chuyên ngành đốt và xử lý CTNH. Cơ sở lý thuyết đưa ra trong đồ án căn cứ trên những tài liệu đã và đang được nghiên cứu có tính khoa học đáng tin cậy.
    1.2.2. Tính thực tế
    Nội dung của luận văn trùng khớp với một phần trong nội dung của chiến lược bảo vệ môi trường tại Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2020. Hiện nay Thành phố đang triển khai đề tài “nghiên cứu đánh giá hiện trạng các hợp chất ô nhiêm hữu cơ bền tại khu vực Tp.HCM và đề xuất các giải pháp quản lý, ngăn ngừa, xử lý và thải bỏ phù hợp”. Hoàn thành đồ án hi vọng có thể đóng góp một phần nhỏ trong việc phân tích, ước lượng hiện trạng phát thải POPs vào môi trường trong khu vực Tp. HCM, xác đinh được những ảnh hưởng của nó đối với con người và môi trường để từ đó đề xuất một số giải pháp giảm thiểu sự phát thải các hợp chất POPs.
    Hiện nay, ở Việt Nam xử lý CTNH bằng phương pháp đốt đang được quan tâm và triển khai thực hiện. Các lò đốt được sử dụng nhiều cho các bệnh viện với qui mô nhỏ, lẻ hoặc đốt tập trung. Thực tế cho thấy quá trình sử dụng các lò đốt CTNH hiện nay nhìn chung đã có những tác động xấu đến môi trường. Một số nơi do yêu cầu lượng rác cần xử lý quá lớn trong khi thiết bị không đủ đáp ứng. Cụ thể ở các lò đốt CTRYT làm ảnh hưởng đến khu vực điều trị nội trú hay những khu dân cư gần các bệnh viện. Bên cạnh lượng CTYT, CTCNNH chưa thể xử lý triệt để, việc áp dụng các lò đốt hiện nay chưa được quản lý chặt chẽ từ công tác vận hành cho đến việc xử lý các thành phần khí thải và tro, xỉ.
    1.2.3. Tính mới của đề tài
    Trong quá trình thực hiện đồ án, việc điều tra thống kê những lò đốt CTNH có khả năng phát thải POPs tại thành phố gặp nhiều khó khăn, vì hầu hết ít có báo cáo, đề tài liên quan đến vấn đề này. Mặc dù vậy, đồ án cũng nhận được nhiều sự giúp đỡ để hoàn thành đồ án trong khả năng có thể cho các nội dung cần làm ro. Kết quả thực hiện đồ án sẽ đưa ra được một bức tranh chung về sự phát thải POPs từ quá trình đốt chất thải tại Tp. HCM với một số thống kê hiện trạng, ước đoán sự phát thải từ kết quả tính toán và một số giải pháp đề xuất.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...