Tài liệu Đại Việt Thông Sử

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đại Việt Thông Sử



    QUYỂN I


    Đế KỷĐệ Nhất
    Thần Đôn soạn


    THÁI TỔ (THƯỢNG)


    [tờ 7a] Vua Thái Tổ, thụy hiệu Thống Thiên khải vận thánh đức thần công duệ văn anh vũ
    khoan minh dũng trí hoằng nghĩa chí nhân đại hiếu Cao Hoàng Đế. Vua họ Lê, tên húy là Lợi, người làng
    Lam Giang, huyện Lương Giang, phủ Thanh Hoa. Cụ Tằng Tổ của vua tên húy là Hối, sau truy tôn là
    Cao thượng tổ Minh Hoàng Đế. Tính cụ chất phát ngay thẳng, giữ mình như người ngu, nhưng hiểu
    biết rất sâu xa, có thể biết trước những sự chưa thành hình. [tờ 7b] Nguyên trước ở thôn Như Áng, một
    hôm, cụđi chơi, thấy đàn chim liệng vòng quanh trên một khoảng đất nơi dưới núi Lam sơn, trông hình
    như một đám người tụ hội. Cụ tự nghĩ: Chỗ này tất là nơi đất lành, bèn dời nhà đến ởđấy, rồi khai phá
    ruộng vườn, tự chăm lo cày cấy, được 3 năm, trở thành một sản nghiệp, tựđấy, đời đời đều là hùng
    trưởng một phương. Sau này vua dựng đô mở nước, thực cũng căn cơ tựđấy vậy. Cụ Hoàng tổ, tôn
    phong là Hiến tổ Trạch Hoàng Đế, tên húy là Đinh, cụ nối được cơ nghiệp tiền nhân, tính khoan nhân,
    có bụng yêu người, người các nơi gần xa đều qui phục, trong nhà có hàng nghìn người. Lấy cụ bà Hiền
    từ Gia thục Hoàng Thái Hậu họ Nguyễn, tên húy là Quách, sinh hạ 2 con trai, con trưởng tên là Tòng,
    con thứ tức là cụ Hoàng Khảo, tôn phong Tuyên tổ Phúc Hoàng Đế, [tờ 8a] tên húy là Khoáng, cụ nuôi
    nhiều tân khách đúng lễ nghi, thương yên nhân dân, chu cấp người nghèo cùng, giúp đỡ người bệnh tật,
    cả vùng đều phục cụ là có nghĩa, lấy cụ bà Trinh từ Ý văn Hoàng Thái Hậu họ Trịnh tên húy là Ngọc,
    sinh hạ 3 con trai, con trưởng tên là Học, sau truy phong Chiêu hiếu đại vương, con thứ tên là Trừ, sau
    truy tặng Hoằng dụ vương, con trai út tức là Hoàng đế. Hoàng đế sinh giờ tý ngày mồng 6 tháng 8
    năm Ất sửu (1385), nhằm niên hiệu Xương phù thứ 9 nhà Trần, sanh tại làng Chủ sơn, huyện Lôi dương.
    Nguyên trước, xứ Du sơn thôn Như áng hậu thuộc làng này (Chủ sơn), có một cây quế, dưới cây quế này
    có con hùm xám thường xuất hiện, nhưng nó hiền lành, vẫn thường thân cận với người mà chưa từng
    hại ai. Tự khi Hoàng đế ra đời, thì không thấy con hùm ấy đâu nữa. Người ta cho là một sự lạ! Ngày
    Hoàng đế sanh, thì trong nhà có hào quang đỏ chiếu sáng rực, và mùi thơm ngào ngạt khắp làng. [tờ
    8b] Khi lớn tuổi, ngài thông minh dũng lược, độ lượng hơn người, vẻ người tươi đẹp hùng vĩ, mắt sáng
    mồm rộng; sống mũi cao, xương mi mắt gồ lên; bả vai bên tả có 7 nốt ruồi, bước đi như rồng như hổ;
    tiếng nói vang vang như tiếng chuông. Các bậc thức giả biết ngay là một người phi thường.


    Khi Hoàng đế giúp việc ở Khả lam, được hồn sư ông Bạch Y hiển hiện chỉ cho ngôi huyệt phát
    đế vương ởđộng Chiêm nghi.


    Thời ấy, người phường chài ở sách Mục sơn là Lê Thận, đêm nào cũng thấy khoảng sông Lam
    Xuyên có luồng ánh sáng như bó đuốc cháy, rồi hơn một tháng sau, bỗng chài được một thanh sắt dài
    hơn một thước, hình tựa thanh đao cũ, đem vềđể trong nhà, ngay hôm ấy Hoàng đếđến nhà y, thấy
    trong nhà tối có một luồng ánh sáng, liền tới chỗđó lấy thanh đao đem về, vềđến nhà, không phải mài
    mà sáng nhưđao mới, nhận thấy có hàng chữ triện khắc trên thân đao, biết là một thanh bảo kiếm. Đêm
    hôm sau, [tờ 9a] có trận mưa gió, sáng ra, thấy trong vườn rau có lốt chân thần in trên lá rau, Hoàng
    đế sai người vẽ hình vết chân ấy. Ngày hôm sau, Hoàng hậu ra vườn hái rau, đến chỗ cây rau có hình
    bàn chân, bỗng được một quảấn báu, bề dài bề rộng ngay ngắn, mặt quảấn khắc mấy chữ lối triện.
    trên quảấn khắc đích họ tên Hoàng đế, nhận kỹ mới rõ. Hoàng đế biết rõ bảo vật của trời đất ban cho,
    bèn cuối đầu lạy tạ. Ngày hôm sau, bỗng được cái chuôi thanh kiếm ở cây đa, rửa sách đất cát đi, thấy
    có khắc hình con rồng và con hổ, và hiện ra hai chữ Thanh Thúy, đem lắp vào thanh kiếm đã bắt được
    hồi trước, vừa vặn không sai tý nào, càng tin là vật thần cho.


    Bấy giờ là thời kỳ họ Hồ cướp ngôi vua nhà Trần, Hoàng đếở quê hương đọc sách và nghiên cứu
    binh pháp, giữ mình chờ thời vận.


    Đến khi nước Tàu dẫn quân sang đánh, bắt họ Hồđem vầ kinh đô Kim lăng, rồi chia nước Nam
    ta thành từng Quận từng Huyện. [tờ 9b] Hoàng đế ngầm có chí khôi phục non sông, ngài hạ mình tôn
    người hiền, tung tiền của nuôi binh sĩ, chiêu nạp những người mắc lỗi trốn lánh, được nhiều người qui
    phục.


    Vua Hưng Khánh và vua Trùng Quang nối tiếp khởi binh chống quân Tàu, lấy danh nghĩa là khôi
    phục ngôi vua nhà Trần, được rất nhiều người hưởng ứng. Nhưng Hoàng đế biết rõ thời thế, cho là tất
    không thành công. Bởi thế ngài không dự, và hết sức ẩn kín hình tích, không lộ tiếng tăm.


    Trịnh Đồ tự nước Ai Lao lại yết kiến, hiến 1 con voi đực, Hoàng đế sai Trương Phấn đón tiếp, sau
    Trịnh Đồ và Trịnh Khảđều được ngài tín nhiệm.


    Những hào kiệt thời ấy như: Lê Văn An, Lê Văn LInh, Bùi Khai Hưng, Nguyễn Truy, Lưu Nhân
    Chú, Trịnh Vô, Vũ Uy, Lê Liễu, và Lê Xa Lôi, đều nối tiếp qui phục, ngài niềm nởđón tiếp, [tờ 10a] cùng
    bí mật mưu việc khởi nghĩa.


    Có tên Đỗ Phú người xã Hào lương, đến Ty Bố chánh kiện Hoàng đế về việc lấn ruộng đất,
    nhưng y đuối lý, bị thua kiện, đem lòng oán giận, bèn cáo mét quan nhà Minh dẫn quân bức bách Hoàng
    đếở Lạc thủy (nay đổi là Cẩm thủy).


    Từ khi người Minh đô hộ nước ta, chánh sự phiền toái; thuế má nặng nề; quan tham lại nhũng;
    cấm dân nấu muối trồng rau; bắt dân xuống biển tìm ngọc châu; phá núi lấy vàng; những sản phẩm quý
    giá như: ngà voi, sừng tê, cánh chim chả, cùng các thứ hương, chúng đều vơ vét hết. Sau lại bắt dân
    đắp 10 thành trong 10 Quận đểđóng quân; chúng lại khéo dụ dỗ các người hào kiệt, đưa vào triều đình
    Trung Hoa làm quan, cốt là an tri ở nước Tàu vậy. Bởi vậy nhân dân nước ta không trừ một ai, thấy đều
    sầu thảm oán giận! Hoàng đế vẫn giữ chí như trước, dù người Minh đem quân tước cũng không dụđược,
    [tờ 10b] lấy thế lực cũng không hiếp được, nhưng nhận thấy thế quân địch đang mạnh, nên ngài càng
    ẩn trong bóng tối, không dám khinh động, thường đem bảo vật năn nỉ hối lộ cho bọn Trương Phụ, Trần
    Trí, Sơn Thọ và Mã Kỳ, những mong được khỏi nạn, để nuôi thêm sức lực và chờđợi thời cơ. Chỉ vì tên
    Lương nhữ Hốt người huyện Cổđẳng (nay đổi Hoằng hóa), giữ chức Tham chánh là Thổ quan của người
    Minh, đem lòng ghen ghét, bèn mất cáo với người Minh rằng:


    Người chủ Lam Sơn chiêu nạp những kẽ vong mạng, và đãi ngộ sĩ tốt rất hậu, chí của người ấy
    không phải là nhỏ. Nếu không sớm tính đi, để cho con rồng có lúc gặp mây gặp mưa, thì khi ấy nó sẽ
    không còn là một con vật trong ao nữa đâu. Vậy xin trừ ngay đi, đừng để lưu tai vạ về sau này.


    Người Minh tin lời tên Nhữ Hốt, cho nên càng bức bách ngài rất gấp. Bởi vậy ngài bèn đại hội
    Tướng sĩ, bàn tính việc khởi binh.


    Ngày mồng 2 là ngày Canh Thân, tháng giêng năm Mậu Tuất (1418), nhằm niên hiệu Vĩnh Lạc
    triều Minh thứ 16, [tờ 11a] Hoàng đế dựng cờ khởi nghĩa ở Lam Sơn, xưng là Bình Định Vương, phong
    chức Đại Tướng và chức Thừa Tướng cho: Lê Khang, Lê Luân, Lê Sao, Lê Lễ, Lê Hiêu, Lê Nhữ Tri, Lê Cố,
    Trịnh Thác, Trịnh Hối, Lê Thỏ, lê Lý, Lê Xa Lôi, Lê Khắc Phục, Lê Định, Lê Lãng, Lê Vấn, Lê Cuống, Lê
    Chiêm, Lê Đệ, Lê Khiêm, Lê Trinh, Lưu Đàm, Lê Lâm, Lê Nghiệm, Lê Văn Giáo, Trần Đạt, Trần Khai, Lê
    Cảnh Thọ, Phạm Lung, Phạm Quì, Lê Sát, Trương Lôi, Trịnh Khả, Bùi Quốc Hưng, Lê Nỗ, Lê Liễu, Lê Nhữ
    Lãm, Lê Khả Lãng, Vũ Oai, Trịnh Vô, Lưu Hoạn, Trần Hốt, Đỗ Bí, Nguyễn Trãi, Lê Văn Linh, Lê Thận và
    Lê Văn An, [tờ 11b] chia nhau đốc suất đội quân Thiết đột ra đối địch với quân Minh.


    Lúc ấy binh tướng của ta đương thời kỳ ban đầu, còn rất ít ỏi, thế mà quân Minh có tới hơn
    45.000, voi ngựa có hàng trăm con, bởi thế Hoàng đế không địch nổi, thua trận phải chạy vào Mang Một,
    nay là (Mang Chánh), rồi lần đến Trịnh Cao, giáp giới nước Ai Lao, nơi đây, dân thưa lương ít, trên đường
    không người đi lại. Đóng ở Mang Cốc trong núi Linh sơn hơn 10 ngày, phải dùng mật ong trộn với vũ dư
    lương (thứ phấn hồng trong đá) làm bữa ăn, rất là khốn đốn! Hoàng đế bèn hỏi các tướng:
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...