Tài liệu đại cương lịch sử triết học

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CHƯƠNG I: ĐẠI CƯƠNG LỊCH SỬ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY

    1.1. TRIẾT HỌC HY LẠP VÀ LA MÃ CỔ ĐẠI

    Sự phát triển của triết học La-mã và Hy-lạp cổ đại được chia thành ba thời kỳ:

    - Thời kỳ tiền Socrate: Trước thế kỷ IV tcn với các trường phái triết học tiêu biểu là Milê, Pitago, Hêraclit, Êlê . Thời kỳ này các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà khoa học tự nhiên. Vấn đề được các nhà triết học quan tâm hàng đầu là vấn đề bản thể luận.

    - Thời kỳ Socrate: Từ thế kỷ IV tcn đến thế kỷ III tcn, đây là thời kỳ cực thịnh của triết học Hy-La, với các triết gia nổi tiếng Socrat, Platon, Aristote, Democrite và vấn đề mà họ quan tâm trong triết học của mình là vấn đề con người.

    - Thời kỳ Hy Lạp hoá: Đây là thời kỳ Hy Lạp bị La Mã chinh phục về lãnh thổ, nhưng La Mã lại bị Hy Lạp khuất phục bởi những giá trị của nề văn hoá rực rỡ của Hy Lạp cổ đại.

    Giai đoạn này các nhà triết học lãng tránh những vấn đề trung tâm của triết học, mà chìm đắm với những suy tư về định mệnh, chìm đắm trong đời sống tình cảm và ham muốn . nó báo hiệu cho sự suy tàn của triết học Hy-La.

    Triết học Hy Lạp và La Mã cổ đại có các đặc điểm sau:

    - Là sự kết tinh những gi tinh tuý nhất của nhận thức tổng hợp nhân loại từ cộng sản nguyên thuỷ đến chiếm hữu nô lệ ở phương Tây, nó dung chứa hầu hết các vấn đề cơ bản của thế giới quan, dù chưa thoát khỏi trạng thái phôi thai mộc mạc, nhưng vô cùng phong phú và đa dạng.

    - Con người là vấn đề trung tâm của triết học, nhưng chỉ là con người cá thể. Giá trị thẩm định con người mới chỉ chủ yếu là đạo đức, giáo tiếp và nhận thức.

    - Tính duy vật tự phát và biện chứng sơ khai là một trong các đặc điểm nổi trội của triết học Hy-La cổ đại.

    1.2. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI TRUNG CỔ THẾ KỶ V ĐẾN THẾ KỶ XV:

    Sự hình thành của triết học Tây Âu trung cổ không tách rời những ảnh hưởng của triết học Cơ đốc giáo từ thế kỷ II đến thế kỷ IV (với các triết gia tiêu biểu là Téc-tu-liêng, Au-guyt-xtanh). Triết học kinh viện là điểm nổi bật của triết học Tây Âu thời trung cổ và nó chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết học Platon, Arixtote.

    Sự phát triển của triết học Tây Âu thời trung cổ có thể chia thành ba thời kỳ: Thời sơ khai (IX-XII với các triết gia Giăng-Scốt, A-sen-me-de-Khan-to-be-ry, An-bê-la), Thời hưng thịnh (XII-XIII với các triết gia An-be-lơ-Grăng, Tô-mát-Đa-canh), Thời suy tàn (XIV-XV với các triết gia Rô-giê-Bê-cơn, Đôn-xcốt, Ốc-Cam).

    Những đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời Trung cổ là:

    - Là tiếng đồng vọng của tôn giáo, là sự biện minh của thần học. Đây là thời kỳ triết học phục tùng thần học và phục vụ tôn giáo, trên thực tế triết học đã là đầy tớ của thần học và tôn giáo.

    - Trung tâm của triết học Tây Âu thời trung cổ là mối quan hệ giữa niềm tin và tri thức: Triết lý thuần tuý, tư biện bị vấp chắn bởi các chân lý đời thường; Triết lý kinh viện bị nan giải khi lấy niềm tin làm tiền đề giải quyết các mối quan hệ riêng - chung; Đức tin đã không thể giải thích được tại sao con người luôn tư duy bằng khái niệm trong khi thế giới hiện thực chỉ tồn tại các sự vật cụ thể đơn nhất.

    - Cuộc đấu tranh của triết học trên vấn đề cơ bản được biểu hiện qua xung đột giữa chủ nghĩa duy danh và chủ nghĩa duy thực. Các nhà triết học duy danh khẳng định cái riêng có trước quyết định caí chung. Các nhà triết học duy thực lại khẳng định cái chung có trước quyết định cái riêng.

    - Con người trong triết học Tây Âu thời Trung cổ chỉ là những sinh linh nhỏ bé, tội nghiệp, thụ động, trĩu nặng tội tông truyền, phải ăn năn sám hối trong kiếp làm người.

    1.3. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI PHỤC HƯNG THẾ KỶ XV-XVI

    Đây là thời kỳ giai cấp tư sản ra đời và lớn mạnh, họ gương cao ngọn cờ duy vật và vô thần cùng nông dân đấu tranh lật đổ chế độ phong kiến ở phương Tây. Các nhà triết học tiêu biểu thời kỳ này là: Ni-cô-lai-Cô-péc-ních, Bờ-ru-nô, Ga-li-lê. Triết học Tây Âu thời phục hưng vì thế có các đặc điểm:

    - Là vũ khí lý luận của giai cấp tư sản trong cuộc đấu tranh chống phong kiến và giáo hội. Do giương cao chủ nghĩa duy vật và vô thần mà nhiều nhà tư tưởng tiến bộ đã bị giáo hội sát hại, bắt bớ, cầm tù.

    - Phiếm thần và tự nhiên thần là biểu hiện của sự thoả hiệp với triết học duy tâm hữu thần và cũng là tính hai mặt của các nhà triết học duy vật Tây Âu thời kỳ phục hưng.

    - Con người trong triết học Tây Âu thời kỳ phục hưng là thước đo vẻ đẹp cường tráng của thân thể, sự tinh anh của trí tuệ và chỉ biết thờ phụng, chiêm ngưỡng chính bản thân mình, với một khát vọng cháy bỏng về tự do.

    - Chủ nghĩa nhân văn kiểu chủ nghĩa xã hội không tưởng là một trong những đặc điểm nổi bật của triết học Tây Âu thời phục hưng.

    1.4. TRIẾT HỌC TÂY ÂU THỜI CẬN ĐẠI THẾ KỶ XVII-XVIII

    Đây là thời kỳ khai sinh các dân tộc tư sản, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thay thế cho phương thức sản xuất phong kiến ở Tây Âu. Sự phát triển về kinh tế và xã hội cùng với sự phát minh vĩ đại trong khoa học tự nhiên đã tạo ra những tiền đề cần thiết cho sự ra đời của chủ nghĩa duy vật siêu hình ở Tây Âu cận đại. Sự trỗi dậy của triết học duy tâm chủ quan bất khả tri Anh chỉ là tiếng kêu thất thanh, giãy chết trước sự lớn mạnh như vũ bão của triết học duy vật Pháp. Những triết gia tiêu biểu của thời kỳ này là: Phờ-răng-xít-Bê-cơn, Tô-mát-Hốp-bơ, Giôn-Lốc-cơ, Béc-cơ-ly, Đa-vít-Hi-um, Rơ-nê-Đề-các, Pát-can, Mông-téc-ky-ơ, Vôn-te, Giăng-giắc-Rút-xô, Đi-đơ-rô, Hôn-bách, Spi-nô-gia, Lép-ních . Đặc điểm cơ bản của triết học Tây Âu thời cận đại là:

    - Giai cấp tư sản tiếp tục gương cao ngọn cờ duy vật và vô thần trong cuộc đấu tranh để thiết lập trật tự tư bản chủ nghĩa và giải phóng con người. Những quan niệm xã hội tiến bộ của chủ nghĩa duy vật trở thành cơ sở lý luận cho việc bác bỏ thần học và tôn giáo. Con người đã trở thành niềm kiêu hãnh của thời đại. Nhưng con người mới chỉ được đề cập ở khía cạnh cá thể, những bức bách được khẳng định về năng lực và giải phóng ở tính sinh vật, nhận thức và nhu cầu tình cảm, còn mặt bản chất xã hội ít được đề cập đến.

    - Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại phát triển trong quan hệ gắn bó chặt chẽ với khoa học. Việc phân định nhà triết học và khoa học tự nhiên nhiều trường hợp chỉ có ý nghĩa tương đối.

    - Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại chịu ảnh hưởng nặng nề sự thống tri của phương pháp siêu hình.

    - Triết học duy vật Tây Âu thời cận đại là triết học duy vật không triệt để, họ thường duy vật khi bàn về các hiện tượng tự nhiên, nhưng duy tâm khi giải quyết các vấn đề xã hội.

    - Triết học Tây Âu thời cận đại đặc biệt quan tâm đến vấn đề nhận thức luận và phương pháp luận. Trong nhận thức luận họ thường đề cao một trong hai giai đoạn của quá trình nhận thức cảm tính hay lý tính nên không thấy được tính biện chứng, thống nhất của quá trình nhận thức. Về mặt phương pháp thì lại tuyệt đối hoá một trong hai phương pháp nhận thức diễn dịch hay quy nạp do chủ thể mà không do đối tượng và mục đích nghiên cứu quyết định.

    - Cuộc đấu tranh tiêu biểu của triết học trong thời kỳ này là cuộc đấu tranh giữa hai đường lối triết học Béccơly và Điđơrô.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...