Thạc Sĩ Đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 17/6/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    MỞ ĐẦU 1
    CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ 14
    VỀ ĐỊA BÀN THANH HÓA 14
    1.1. DẪN NHẬP. 14
    1.2. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH 15
    1.2.1. Khái quát về địa danh. 15
    1.2.2. Phân loại địa danh. 19
    1.2.3. Về mối quan hệ giữa địa danh và văn hóa. 21
    1.2.4. Về định danh trong ngôn ngữ và trong địa danh. 27
    1.2.5. Về vấn đề ý nghĩa của địa danh. 31
    1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỊA BÀN THANH HÓA 34
    1.3.1. Sơ lược về đặc điểm địa bàn Thanh Hóa. 34
    1.3.2. Sơ lược về đặc điểm phương ngữ Thanh Hóa. 42
    1.3.3. Sơ lược về địa danh Thanh Hóa. 43
    1.4. TIỂU KẾT 46
    CHƯƠNG 2. CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH THANH HÓA 48
    2.1. DẪN NHẬP. 48
    2.2. KHÁI QUÁT VỀ CẤU TẠO ĐỊA DANH 49
    2.2.1. Mô hình cấu tạo địa danh. 49
    2.2.2. Về các thành tố trong cấu tạo địa danh. 51
    2.3. ĐẶC ĐIỂM THÀNH TỐ CHUNG TRONG ĐỊA DANH THANH HÓA 55
    2.3.1. Đặc điểm chung. 55
    2.3.2. Đặc điểm nguồn gốc ngôn ngữ của thành tố chung. 56
    2.3.3. Đặc điểm cấu tạo của thành tố chung. 57
    2.3.4. Về khả năng chuyển hóa và kết hợp của thành tố chung. 58
    2.4. ĐẶC ĐIỂM THÀNH TỐ RIÊNG TRONG ĐỊA DANH THANH HÓA 66
    2.4.1. Đặc điểm chung. 66
    2.4.2. Đặc điểm nguồn gốc ngôn ngữ của các yếu tố trong thành tố riêng. 66
    2.4.3. Đặc điểm cấu tạo của thành tố riêng. 70
    2.4. TIỂU KẾT 78
    CHƯƠNG 3. CÁC PHƯƠNG THỨC ĐỊNH DANH TRONG ĐỊA DANH THANH HÓA 80
    3.1. DẪN NHẬP. 80
    3.2. CÁC PHƯƠNG THỨC ĐỊNH DANH TRONG ĐỊA DANH THANH HÓA 81
    3.2.1. Đặc điểm chung. 81
    3.2.2. Định danh bằng phương thức tự tạo. 82
    3.2.3. Định danh bằng phương thức chuyển hóa. 100
    3.2.4. Định danh bằng phương thức vay mượn. 102
    3.2.5. Các địa danh chưa xác định được lí do. 104
    3.3. TIỂU KẾT 104
    CHƯƠNG 4. CÁC ĐẶC TRƯNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA TRONG Ý NGHĨA VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA ĐỊA DANH THANH HÓA 106
    4.1. DẪN NHẬP. 106
    4.2. CÁC BÌNH DIỆN NGÔN NGỮ - VĂN HÓA TRONG Ý NGHĨA CỦA ĐỊA DANH THANH HÓA 107
    4.2.1. Các yếu tố địa - văn hóa trong địa danh. 107
    4.2.2. Các yếu tố có mối liên hệ với lịch sử, văn hóa, xã hội trong địa danh. 113
    4.2.3. Các yếu tố liên quan đến đặc trưng phương ngữ trong địa danh. 124
    4.3. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA ĐỊA DANH THANH HÓA 132
    4.3.1. Sự biến đổi của địa danh tự nhiên. 132
    4.3.2. Sự biến đổi của địa danh nhân văn. 137
    4.4. TIỂU KẾT 143
    KẾT LUẬN 145
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 150


    DANH MỤC BẢNG
    Bảng 1.1: Bảng tổng hợp tần số xuất hiện của các nhóm địa danh. 45
    Bảng 1.2a: Nguồn gốc ngữ nguyên của thành tố riêng trong địa danh đồng bằng 46
    Bảng 1.2b: Nguồn gốc ngữ nguyên của thành tố riêng trong địa danh miền núi 46
    Bảng 2.1: Mô hình cấu tạo địa danh. 50
    Bảng 2.2: Nguồn gốc ngữ nguyên của thành tố chung. 56 trong địa danh Thanh Hóa 56
    Bảng 2.3: Tổng hợp tần số xuất hiện các kiểu cấu tạo của thành tố chung. 57
    Bảng 2.4: Tổng hợp tần số xuất hiện các kiểu cấu tạo của thành tố riêng. 66
    Bảng 3.1: Tổng hợp tần số xuất hiện của các phương thức định danh. 81

    DANH MỤC SƠ ĐỒ
    Sơ đồ 1.1: Phân loại địa danh Thanh Hóa theo tiêu chí tự nhiên/không tự nhiên 44

    DANH MỤC BIỀU ĐỒ

    Biểu đồ 1.1. Sự phân bố các nhóm địa danh Thanh Hóa. trong địa danh đồng bằng 45



    MỞ ĐẦU1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
    1.1. Địa danh là một loại đơn vị từ vựng. Những lí thuyết về địa danh đã được công bố trên thế giới trước đây chủ yếu có đối tượng nghiên cứu là địa danh ở các ngôn ngữ biến hình. Trong khi đó, sự tồn tại và vận động của địa danh trong mỗi ngôn ngữ bị chi phối mạnh mẽ bởi những quy luật nội tại của chính ngôn ngữ đó. Vì thế, khi vận dụng các lí thuyết trên vào nghiên cứu địa danh ở các ngôn ngữ phi hình thái như tiếng Việt đã nảy sinh một số vấn đề không phù hợp về cấu tạo, các ý nghĩa ngữ pháp về giống, số, cách trong địa danh, sự biến đổi của địa danh, . Do đó, việc nghiên cứu địa danh của các địa phương trong các ngôn ngữ cụ thể sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lí thuyết địa danh trong ngôn ngữ không biến hình nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Đây là một việc làm rất cần thiết trong hiện tại. Hơn nữa, nghiên cứu địa danh của từng địa phương, từng vùng còn có ý nghĩa thiết thực góp phần bổ sung cho bức tranh toàn cảnh về địa danh Việt Nam.
    1.2. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa từ lâu đã được khẳng định. Đó là mối quan hệ hữu cơ giữa một bên là những giá trị vật chất và tinh thần của một dân tộc và bên kia là phương tiện giao tiếp chung của dân tộc ấy. Kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học đã khẳng định: những đặc trưng của văn hóa dân tộc có ảnh hưởng và được thể hiện khá rõ trong ngôn ngữ. Ngôn ngữ, vì thế, không chỉ là phương tiện giao tiếp của cộng đồng mà còn là phương tiện bảo lưu những đặc trưng về lịch sử - văn hóa và tư duy dân tộc. Địa danh là một trong những đơn vị ngôn ngữ thể hiện mối quan hệ ấy một cách rõ nét. Nghiên cứu địa danh ở một địa phương, một vùng miền chính là góp phần làm rõ bức tranh ngôn ngữ - văn hóa, lịch sử - tộc người của địa phương ấy.
    1.3. Thanh Hóa là vùng chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Trung Bộ. Những đặc trưng về địa lí tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội, ngôn ngữ, tộc người, . đã tạo nên một xứ Thanh với những sắc thái văn hóa riêng biệt. Những đặc trưng đó chắc chắn còn được lưu giữ trong địa danh. Vì thế, việc nghiên cứu những đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong địa danh Thanh Hóa thực sự hứa hẹn nhiều điều thú vị.
    1.4. Là tỉnh lớn cả về diện tích và dân số, việc nghiên cứu địa danh Thanh Hóa là vấn đề phức tạp và đòi hỏi phải rất dày công. Trong khuôn khổ của một luận án, việc làm này sẽ trở nên không tưởng nếu không chia vùng, xé lẻ để thực hiện. Lê Trung Hoa đã nhận định: “Đối với những địa bàn đa ngữ, việc phân vùng địa danh để khảo sát riêng từng loại là rất quan trọng” [57; 8]. Lấy sông Mã làm trung tâm về địa bàn khảo sát, luận án tập trung nghiên cứu địa danh ở một số huyện vùng đồng bằng sông Mã và một số huyện miền núi ở Thanh Hóa. Vùng đồng bằng sông Mã là vùng trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của tỉnh Thanh Hóa từ xưa đến nay. Nghiên cứu ngôn ngữ - văn hóa của địa danh ở địa bàn này cũng chính là khai phá vào vùng đất trung tâm của địa danh người Việt ở Thanh Hóa. Vùng miền núi là địa bàn cư trú của các DTTS. Tính đa sắc tộc về văn hóa sẽ được phản ánh trong địa danh ở đây. Những đặc điểm rất riêng ấy chắc chắn được phản ánh cụ thể trong địa danh Thanh Hóa.
    2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
    2.1. Vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới
    Việc nghiên cứu địa danh trên thế giới xuất hiện muộn hơn sự định danh nhưng so với các khoa học khác lại rất sớm.
    Từ thời cổ đại, trên thế giới đã có những ghi chép về địa danh. Thậm chí có một số sách còn ghi rõ hoặc thuyết minh về nguồn gốc và quá trình diễn biến của địa danh, trình bày cách đọc và lí giải lí do gọi tên các vị trí địa lí, như sự ghi chép của Ban Cố trong Hán Thư (32 - 92 sau Công nguyên), của Lệ Đạo Nguyên (466? - 527) trong Thuỷ Kinh Chú [155; 12]. Ở phương Tây, trong Thánh kinh của Thiên Chúa giáo cũng đã thu thập rất nhiều địa danh với các nguồn khác nhau. Sự thu thập đó chủ yếu nhằm mục đích truyền giáo cho cư dân trên các châu lục, các quốc gia, các vùng miền khác nhau. Những ghi chép đó như là những công trình đầu tiên, khởi nguyên cho hướng nghiên cứu địa danh ở góc độ địa lí học lịch sử.
    Đến thế kỷ XIX, địa danh học mới trở thành một khoa học ở Tây Âu với các tên tuổi cùng các công trình: T.A. Gibson (1835) có Địa lí học từ nguyên: hướng đến một danh sách phân loại về các từ ngữ thường gặp, như tiền tố hoặc hậu tố, trong các phức thể của tên địa lí; Issac Taylor (1864) có Từ và các địa điểm hay sự minh hoạ có tính nguyên lai về lịch sử, dân tộc học và địa lí học; J. J. Eghi (1872) có Địa danh học; J.W. Nagh (1903) có Địa danh học, . Những công trình này ban đầu đã đưa ra các hướng nghiên cứu lí thuyết làm tiền đề cho khoa học địa danh phát triển trong thế kỷ XX. Cũng ở giai đoạn này, nhiều cuộc hội thảo có tính chất khu vực và quốc tế đã được tổ chức ở Mỹ, Australia, Anh. Nhiều tổ chức nghiên cứu về địa danh được thành lập. Năm 1890, Uỷ ban địa danh Mỹ được thành lập. Uỷ ban địa danh Thụy Điển cũng được thành lập năm 1902. Năm 1925, ở Đức đã có tạp chí chuyên ngành Nghiên cứu địa danh [155,12].
    Sang thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã đưa địa danh học lên một bước phát triển mới: vừa nghiên cứu theo hướng lí thuyết vừa nghiên cứu theo hướng ứng dụng. Tiêu biểu là các công trình: Các tên gọi, một khảo sát về việc đặt tên địa điểm của George R. Stewart (1958), Thực hành địa danh học của P. E. Raper, Địa danh học, kho tri thức, các quy tắc và ngôn ngữ của Naftali Kadmon, Đi đầu trong nghiên cứu hệ thống lí thuyết về địa danh là các học giả Xô viết. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, hàng loạt các công trình địa danh học ra đời. Đó là các tác giả: E. M. Murzaev với Những khuynh hướng nghiên cứu địa danh học, Iu. A. Kapenko với Bàn về địa danh học đồng đại (1964), A. I. Popov với Những nguyên tắc cơ bản của công tác nghiên cứu địa danh, N. I. Nikonov với Các khuynh hướng nghiên cứu địa danh .v.v [92], [155].
    Tiêu biểu cho những nghiên cứu về địa danh học Xô viết là các công trình Những nguyên lí của địa danh họcĐịa danh là gì của học giả người Nga A. V. Superanskaja. Trong hai tác phẩm này, Superanskaja đã xem xét địa danh hoàn toàn từ góc độ ngôn ngữ học và trên các phương diện của nó. Đặc biệt, trong Địa danh là gì (1985), tác giả đã đưa ra gần như toàn bộ các vấn đề lí thuyết về địa danh ở Nga ngữ. Hàng loạt các thuật ngữ (sơn danh, thuỷ danh, phố danh, .) cùng với sự phân loại địa danh, vấn đề định nghĩa địa danh, địa danh học, chức năng, cấu tạo của địa danh, tính liên tục của địa danh, cách viết tên gọi địa lí, . đã được tác giả nghiên cứu khá sâu. Superanskaja nêu rõ: “Chỉ có bằng các phương pháp ngôn ngữ mới có thể kiểm tra những giả thuyết có liên quan đến xuất xứ của hàng loạt địa danh” [115; 3].
    Cùng với những vấn đề lí thuyết, V.A. Superanskaja đã đưa ra sự phân tích vừa cụ thể, tỉ mỉ lại vừa có tính khái quát cao về địa danh. Có thể xem những vấn đề lí thuyết mà Superanskaja đưa ra đều là những vấn đề quen thuộc trong địa danh học ở Nga ngữ nói riêng và trên thế giới nói chung. Cũng vì thế, lí thuyết này được nhiều nhà địa danh học Việt Nam vận dụng.
    2.2. Vấn đề nghiên cứu ngôn ngữ - văn hóa của địa danh ở Việt Nam
    Ở Việt Nam, khoa học về địa danh thường được nghiên cứu theo ba hướng: địa lí học lịch sử, địa danh học ứng dụng và ngôn ngữ học.
    Những nghiên cứu về địa danh theo hướng địa lí học lịch sử ở Việt Nam xuất hiện muộn hơn so với thế giới. Mãi đến thế kỷ XIV mới có những tác phẩm: Dư địa chí của Nguyễn Trãi (1435), Dư địa chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1821). Chi tiết hơn một chút có Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình Hổ, Phương đình dư chí của Nguyễn Siêu (1900), Sử học bị khảo (mục Địa lí khảo thượng, hạ) của Đặng Xuân Bảng, Ô Châu cận lục của Dương Văn An, Đại Nam nhất thống chí, . Theo hướng này, thời kì hiện đại có công trình Đất nước Việt Nam qua các đời của Đào Duy Anh (1964).
    Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, việc nghiên cứu địa danh chuyển sang dạng khảo sát, tập hợp các hệ thống địa danh Việt Nam theo hướng ứng dụng. Những công trình khảo sát công phu phải kể đến là: Tên làng xã Việt Nam đầu thế kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra) do Dương Thị The và Phạm Thị Thoa dịch và biên soạn, Danh mục các làng xã Bắc Kỳ (Nomenclature des communues du Tonkin) của Ngô Vi Liễn (1928), . Những công trình này là những tập hợp đơn giản, thuần tuý các địa danh hành chính, rất thuận tiện cho việc tra cứu. Từ đó cho đến nay, hàng loạt các tài liệu về địa danh được tập hợp dưới dạng sổ tay địa danh. Có thể xem đây là nguồn tư liệu quý giá về địa danh Việt Nam theo hướng nghiên cứu của địa danh học ứng dụng.
    Đến những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, địa danh Việt Nam mới được xem xét, nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ học. Năm 1966, Hoàng Thị Châu với bài viết Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông đã là người đưa “nhát cuốc” đầu tiên khai phá vùng đất hứa hẹn nhiều tài nguyên của địa danh Việt Nam dưới góc độ ngôn ngữ học. Bằng phương pháp nghiên cứu so sánh - lịch sử, với những dẫn liệu xác đáng, tác giả đã đưa ra những luận điểm thuyết phục về việc lí giải nguồn gốc các địa danh sông Việt Nam. Theo đó, các yếu tố có mặt trong một số địa danh sông ở Việt Nam và Đông Nam Á đều có nghĩa liên quan đến nước [46; 130]. Từ đó có thể suy rộng ra, không chỉ có những địa danh khảo sát trong bài viết mà cả hệ thống địa danh sông ở Việt Nam nói chung đều có nghĩa liên quan đến nước dù nguồn gốc ngữ nguyên của chúng khác nhau. Điều đó có nghĩa là những địa danh sông ngày nay có thể đều được chuyển hóa từ những danh từ chung (thành tố chung) có nghĩa là nước mà thành.
    Năm 1976, Trần Thanh Tâm với bài Thử bàn về địa danh Việt Nam [116] đã sơ lược hình dung về bức tranh địa danh ở Việt Nam từ góc độ địa - văn hóa. Từ góc nhìn này, tác giả đề cập đến các vấn đề như là những gợi ý ban đầu cho một hướng nghiên cứu về địa danh: sơ lược nghiên cứu địa danh ở Việt Nam, quy luật phát triển của địa danh, các loại hình địa danh và mấy đặc điểm về địa danh Việt Nam. Đáng chú ý là ở nội dung về quy luật phát triển của địa danh, tác giả đã nêu ra một số nguyên nhân ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển của địa danh. Tuy nhiên, ở nội dung phân loại, do không xây dựng tiêu chí rõ ràng nên sự phân chia thành các loại hình địa danh chưa thống nhất và phù hợp.
    Tiếp tục hướng nghiên cứu này, đến những năm của thập niên cuối cùng của thế kỷ trước, các luận án nghiên cứu địa danh ở các địa phương của Lê Trung Hoa (1990), Nguyễn Kiên Trường (1996) mới thực sự trở thành dấu mốc mới cho nghiên cứu địa danh ở Việt Nam với tư cách là một bộ môn của khoa học ngôn ngữ. Trong công trình Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh (1991), Lê Trung Hoa đã đưa ra một số vấn đề lí thuyết làm cơ sở cho việc nghiên cứu và phân tích địa danh ở Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, những đặc điểm của địa danh vùng đồng bằng Nam Bộ được làm sáng rõ. Năm 1996, Nguyễn Kiên Trường đi vào nghiên cứu địa danh Hải Phòng. Ở đây, một số vấn đề lí thuyết như khái niệm và chức năng của địa danh được bổ sung. Một hệ phương pháp nghiên cứu địa danh được xác định gồm hai nhóm: nhóm phương pháp thu thập và xử lí địa danh và nhóm các phương pháp nghiên cứu. Vì thế, đặc điểm địa danh vùng biển Hải Phòng đã được tác giả chỉ ra trong mối liên hệ và so sánh với địa danh của các địa phương khác [155].
    Năm 2000, không đi sâu vào nghiên cứu tỉ mỉ địa danh của từng địa phương, Nguyễn Văn Âu trong “Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam” sơ lược đưa ra những vấn đề của địa danh học. Đó là: xác định đối tượng nghiên cứu của địa danh học, các phương pháp và ý nghĩa của việc nghiên cứu địa danh, . Trong mục Đặc điểm của địa danh Việt Nam, tác giả đã chỉ ra một số những đặc điểm về nguyên tắc đặt tên, sự biến đổi của địa danh, phân loại và phân vùng địa danh như là những phác hoạ ban đầu cho bức tranh địa danh Việt Nam. Tuy nhiên, ở mục phân vùng địa danh Việt Nam, tác giả lại sử dụng phương pháp của địa lí học khi nghiên cứu một số địa danh cụ thể.
    Sang thế kỷ XXI, từ năm 2004 đến nay, nhiều luận án đã nghiên cứu về địa danh của các địa phương. Từ Thu Mai (2004) nghiên cứu đặc điểm của địa danh Quảng Trị. Trần Văn Dũng (2005) sử dụng phương pháp so sánh - lịch sử khi nghiên cứu các địa danh có nguồn gốc dân tộc thiểu số ở Dak Lăk. Phan Xuân Đạm (2006) khảo sát được một số lượng lớn các địa danh ở Nghệ An và chỉ ra được đặc điểm và giá trị nghệ thuật của địa danh trong ca dao Nghệ Tĩnh. Nguyễn Văn Loan (2012) khảo sát và mô tả địa danh Hà Tĩnh trên cơ sở kế thừa những vấn đề lí luận của các công trình đi trước. Trần Văn Sáng (2013) lần đầu tiên nghiên cứu “địa danh có nguồn gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế”.
    Ngoài những công trình trên, một số đề tài các cấp của một số tác giả đã tiến hành nghiên cứu địa danh ở các địa phương khác như Nghiên cứu địa danh Quảng Nam. Trong công trình này, trên cơ sở những lí thuyết của các học giả đi trước, tác giả đã làm rõ thêm một số vấn đề cho địa danh học Việt Nam: đặc điểm ngữ âm, đặc điểm ngữ nghĩa, đặc điểm ngữ pháp trong địa danh, vấn đề chuẩn hóa địa danh, . Hướng nghiên cứu này đã hoàn toàn sử dụng các phương pháp mô tả của từ vựng học. Ngoài ra, tác giả đã bổ sung thêm một số vấn đề lí thuyết mà ở các công trình của các tác giả khác chưa có. Đó là các vấn đề về địa danh trong ngôn ngữ học đại cương như: địa danh trong các quốc gia đa ngôn ngữ, địa danh trong các ngôn ngữ chưa có chữ viết, .[92].
    Đáng chú ý trong các nghiên cứu về địa danh ở Việt Nam là một hệ thống các công trình của tác giả Lê Trung Hoa. Năm 2006, Lê Trung Hoa đã đưa ra Nguyên tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (Địa danh thành phố Hồ Chí Minh) Địa danh học Việt Nam. Đây có thể xem là công trình tổng hợp những kết quả của quá trình nghiên cứu dài lâu của Lê Trung Hoa về địa danh Việt Nam. Các công trình trên đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản của địa danh Việt Nam, từ khái niệm về địa danh học, phân loại địa danh, vị trí của địa danh trong ngôn ngữ học cho đến các vấn đề nguyên nhân của sự ra đời và mất đi của địa danh, .
    Gần đây, khi những lí thuyết của ngôn ngữ học hiện đại thế giới có những bước tiến đáng kể, các nhà ngôn ngữ học đã có sự quan tâm thích đáng đến mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa. Nhiều học giả Việt Nam trên cơ sở kế thừa, vận dụng và phát triển các lí thuyết đó đã cho ra mắt một số công trình nghiên cứu về tiếng Việt từ góc độ nghiên cứu ngôn ngữ - văn hóa. Các tác giả đã đi theo ba hướng tiếp cận: một là cách tiếp cận của từ nguyên học (Nguyễn Kim Thản, Nguyễn Tài Cẩn, Hoàng Thị Châu, Trần Trí Dõi, Phạm Đức Dương, .); hai là cách tiếp cận của dân tộc - ngôn ngữ học (Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Thúy Khanh, .); và ba là cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận (Lý Toàn Thắng, .) [46].
    Theo hướng nghiên cứu thứ nhất, Hoàng Thị Châu (1964) có Mối liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông, Vài nét về tổ chức xã hội Văn Lang qua tài liệu ngôn ngữ học, . Nguyễn Kim Thản (1993) với Sự phản ánh một nét văn hóa vật chất của người Việt vào ngôn ngữ, Nguyễn Tài Cẩn (2001) có bài Về tên gọi con Rồng của người Việt [59],
    Theo hướng nghiên cứu thứ hai có thể kể đến các công trình về ngôn ngữ - văn hóa, trong đó có Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy của tác giả Nguyễn Đức Tồn. Trong công trình này, những tiền đề lí thuyết cho việc nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa đã được tác giả trình bày một cách hệ thống và thấu đáo. Tiếp theo, những đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của tiếng Việt trên cơ sở so sánh với tiếng Nga và một số ngôn ngữ khác đã được nghiên cứu một cách sâu sắc. Những đặc trưng văn hóa của ngôn ngữ dân tộc được thể hiện cụ thể trong các lớp từ cơ bản tiêu biểu của tiếng Việt. Chúng tôi coi cách tiếp cận này cũng là hướng nghiên cứu cơ bản và vận dụng các lí thuyết đó để khai thác “đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa”, đặc biệt là trong việc mô tả những đặc điểm định danh của địa danh.
    Theo hướng nghiên cứu thứ ba có thể kể đến công trình Ngôn ngữ học tri nhận - từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt (2005) của tác giả Lý Toàn Thắng nghiên cứu ngôn ngữ từ góc độ ngôn ngữ học - tri nhận. Công trình này dù không trực tiếp nghiên cứu ngôn ngữ - văn hóa nhưng những gì mà tác giả đưa ra chính là những đặc trưng của tư duy dân tộc. Điều đó đã làm sáng rõ một vấn đề: chính tư duy là cội nguồn làm nên những nét khác biệt về văn hóa hay là những đặc trưng văn hóa dân tộc.
    Ngoài ra, các bài viết khác đáng được lưu tâm là: Về một vài địa danh tên riêng gốc Nam Đảo trong vùng Hà Nội xưaTên gọi sông Hồng: dấu tích biểu hiện nét văn hóa đa dạng trong lịch sử người Việt của Trần Trí Dõi (2001), Một số nhận xét về tên phố Hà Nội có chữ “Hàng” (nhìn từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa) của Hà Quang Năng (2001) [59], . Những bài viết này thực sự là những định hướng quý báu cho chúng tôi về phương pháp và thao tác nghiên cứu cũng như hướng tiếp cận địa danh từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa.
    Như vậy, ngoài những thành công của hướng nghiên cứu địa lí học lịch sử về địa danh, từ góc độ ngôn ngữ học, những vấn đề về địa danh và ngôn ngữ - văn hóa của địa danh vẫn còn được tiếp tục nghiên cứu cả ở Việt Nam và trên thế giới. Địa danh luôn gắn với địa phương. Các vấn đề lí thuyết về địa danh phải được soi sáng bằng việc nghiên cứu địa danh ở các địa bàn cụ thể. Do đó, nghiên cứu địa danh ở các địa phương cụ thể đang trở nên rất cần thiết để hoàn thiện bức tranh ngôn ngữ - văn hóa về địa danh Việt Nam và hoàn thiện hệ thống lí thuyết địa danh học trong ngôn ngữ đơn lập nói riêng và địa danh học nói chung.
    2.3. Nghiên cứu ngôn ngữ - văn hóa trong địa danh Thanh Hóa
    Là một vùng đất cổ với bề dày về truyền thống lịch sử - văn hóa, Thanh Hóa là một trong những địa phương được nhiều học giả thuộc các lĩnh vực khoa học khác nhau của trong và ngoài nước quan tâm. Nhiều hội thảo quốc gia và quốc tế về các vấn đề lịch sử - văn hóa, về vùng đất và con người xứ Thanh đã được tổ chức. Địa danh ở Thanh Hóa vì thế cũng được xem xét, nghiên cứu ở những góc độ này.
    Từ góc độ địa lí học lịch sử, địa danh Thanh Hóa một mặt được nghiên cứu trong các địa dư, địa chí như Lịch triều hiến chương loại chí, Hoàng Việt dư địa chí của Phan Huy Chú, Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định, Đại Việt địa dư toàn biên của Phương đình Nguyễn Văn Siêu, Đại Nam nhất thống chí do Á Nam Trần Tuấn Khải phiên dịch, . và trong các địa bạ, địa dư, địa chí của các làng, xã, huyện và tỉnh. Mặt khác, địa danh Thanh Hóa cũng được đề cập trong các tài liệu, các truyền thuyết về các sự kiện và nhân vật lịch sử của các triều đại: Lê Đại Hành và thời Tiền Lê, về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, về Hồ Quý Ly và thành Nhà Hồ, về chúa Trịnh và kinh đô kháng chiến Vạn Lại - Yên Trường trong thời kì Lê Trung hưng, về chúa Nguyễn, vương triều Nguyễn và Gia Miêu trang và về nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử khác. Ngoài ra, địa danh Thanh Hóa còn được nhắc đến trong các huyền thoại về các vị công thần có công lập làng mở ấp ở Thanh Hóa , trong những nghiên cứu về các làng nghề truyền thống của xứ Thanh. Trong đó, loại hình được nghiên cứu nhiều nhất là địa danh làng.
    Năm 1990, hội thảo về Văn hóa làng Thanh Hóa được tổ chức. Trong cuộc hội thảo này, tác giả Nguyễn Kim Lữ đã đưa ra con số thống kê là 24% của 1792 làng trong tên gọi có yếu tố “kẻ” [158; 73-74]. Cũng trong thời gian này, các tác giả Hoàng Anh Nhân và Lê Huy Trâm lần đầu tiên ra mắt công trình Khảo sát văn hóa làng ở Thanh Hóa. Trong công trình này, tác giả đã đưa ra con số thống kê về các làng nghề, làng văn hóa tiêu biểu của xứ Thanh như là những dữ liệu quan trọng để phục vụ kế hoạch xây dựng làng văn hóa trong thời kì hiện đại [101].
    Năm 2000, công trình Tên làng xã Thanh Hóa (2 tập) của Ban nghiên cứu và biên soạn lịch sử Thanh Hóa được xuất bản. Mục đích của cuốn sách là “bước đầu hệ thống, giới thiệu tên các làng, xã trên đất Thanh Hóa cùng một số diên cách và dấu vết lịch sử” [9] tiện cho việc tra cứu. Và đúng như mục đích, các tác giả chỉ làm thao tác thống kê tên các làng xã Thanh Hóa hiện nay với những thông tin về vị trí, về diện tích, dân số và sự thay đổi tên gọi, . của các làng xã Thanh Hóa từ trước đến năm 2000.
    Địa danh Thanh Hóa cũng được nghiên cứu trong các địa chí của các huyện như: Địa chí huyện Hậu Lộc, Địa chí huyện Hoằng Hóa, Địa chí huyện Vĩnh Lộc, Địa chí huyện Thọ Xuân, . Năm 2000, địa danh ở Thanh Hóa cũng được xem xét trong Địa chí Thanh Hóa. Tuy nhiên, trong công trình này, các tác giả tìm hiểu địa danh trong một giới hạn nhất định để giới thiệu về đất và người xứ Thanh thông qua các địa danh của các địa phương cụ thể.
    Từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa, địa danh ở Thanh Hóa được nghiên cứu lần đầu tiên ở bài viết “Có một làng quê là Kẻ Rỵ” của Nguyễn Quang Hồng [60]. Trong bài viết, tác giả đã dẫn cách giải thích nghĩa của yếu tố “kẻ” trong “Từ điển Việt - Bồ - La” của A. De Rhodes làm cơ sở để nghiên cứu từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa địa danh Kẻ Rỵ. Theo đó, Nguyễn Quang Hồng, bằng những trực giác về ngôn ngữ, đã lí giải: Kẻ Rỵ là tên gọi có liên quan đến nghề làm thừng truyền thống của địa phương.
    Năm 2009, đề tài cấp liên ngành Từ điển địa danh Thanh Hóa đã thống kê được hơn 7000 mục địa danh Thanh Hóa . Mục đích của đề tài là khảo sát được hệ thống các địa danh ở Thanh Hóa để biên tập thành từ điển. Với mục đích đó, địa danh ở đây một mặt được xem xét như là những chỉ dẫn về các thông tin vị trí địa lí, dân số, đặc điểm lịch sử - văn hóa nổi bật; mặt khác từ góc độ ngôn ngữ - văn hóa, một số thông tin khác cũng được điểm qua và có thể coi là những tìm hiểu bước đầu như: miêu tả cấu tạo địa danh, nghĩa của địa danh theo phương diện từ nguyên học dân gian, . [93]. Vì phạm vi khảo sát rộng lại là một địa bàn có số lượng địa danh khổng lồ nên đề tài mới chỉ dừng lại ở cấp độ khảo sát một cách tương đối các địa danh ở Thanh Hóa.
    Tóm lại, cho đến thời điểm hiện tại, địa danh Thanh Hóa vẫn cần có một sự nghiên cứu sâu hơn, khái quát hơn từ phương diện ngôn ngữ - văn hóa.
    3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
    3.1. Mục đích nghiên cứu
    - Thông qua việc thu thập, phân loại, miêu tả và phân tích ngữ liệu, luận án nghiên cứu đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa trên các phương diện: cấu tạo, phương thức định danh, ý nghĩa, nguồn gốc và sự biến đổi của địa danh. Trên cơ sở đó phân tích vai trò của địa danh đối với văn hóa, sự chi phối, tác động của các yếu tố văn hóa đối với sự ra đời và tồn tại của địa danh Thanh Hóa.
    - Kết quả của luận án góp phần tìm hiểu thêm về truyền thống lịch sử và văn hóa lâu đời của xứ Thanh. Từ đó, giáo dục tình yêu quê hương xứ sở cho người dân địa phương, hình thành ý thức bảo vệ và gìn giữ các giá trị truyền thống qua địa danh. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng để phục vụ phát triển du lịch, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa.
    3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án giải quyết các vấn đề sau:
    - Nghiên cứu các vấn đề lí thuyết liên quan đến địa danh làm cơ sở cho việc khai thác địa danh Thanh Hóa. Đó là các vấn đề định nghĩa và phân loại địa danh, các phương thức định danh, ý nghĩa của địa danh, . Xác định mối quan hệ giữa văn hóa và địa danh trên phương diện lí luận.
    - Điền dã, khảo sát, thu thập thực tế hệ thống địa danh tiếng Việt ở Thanh Hóa thuộc các loại hình đối tượng địa lí khác nhau được phân bố ở hai tiểu vùng địa hình: vùng đồng bằng sông Mã và vùng miền núi.
    - Thống kê, phân loại, miêu tả và phân tích các cứ liệu đã thu thập được để xác định các đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa thể hiện trong các phương diện khác nhau của địa danh Thanh Hóa, cố gắng trong khả năng có thể để tìm hiểu các tầng địa danh ẩn sâu bên dưới lớp địa danh bề mặt.
    4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
    4.1. Đối tượng nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu của luận án là tên gọi của các đối tượng địa lí tự nhiên như sông, suối, hồ, đầm, núi, đồi, . và của các đối tượng địa lí nhân văn như cầu, cống, làng, bản, thôn, xóm, . ở Thanh Hóa (đến năm 2010).
    4.2. Phạm vi nghiên cứu
    - Phạm vi khảo sát: Địa bàn khảo sát chủ yếu là vùng đồng bằng sông Mã ở Thanh Hóa, gồm các huyện, thành phố: Vĩnh Lộc, Thọ Xuân, Yên Định, Thiệu Hóa, Đông Sơn, Hà Trung, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, thành phố Thanh Hóa và các huyện miền núi: Cẩm Thủy, Bá Thước, Lang Chánh, Như Thanh, Như Xuân, . Số lượng địa danh trong kết quả khảo sát không phải tương đương theo tỉ lệ 1:1 với các đối tượng địa lí tồn tại ở thực tế khách quan.
    5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
    5.1. Lần đầu tiên địa danh Thanh Hóa được nghiên cứu một cách quy mô theo hướng tiếp cận của ngôn ngữ - văn hóa. Luận án một mặt sẽ mô tả toàn diện bức tranh về địa danh Thanh Hóa trên các phương diện: cấu tạo, phương thức định danh, ý nghĩa, đặc trưng phương ngữ, nguồn gốc và sự biến đổi của địa danh. Mặt khác, từ việc mô tả và phân tích trên, luận án chỉ rõ các đặc trưng văn hóa và biểu hiện của nó trong địa danh Thanh Hóa.
    5.2. Từ những tư liệu thực tế về địa danh Thanh Hóa và kết quả đạt được hi vọng đây sẽ là nguồn ngữ liệu cần thiết, giúp ích cho các công trình nghiên cứu sau này về lịch sử - văn hóa, về phương ngữ Thanh Hóa và về sự phát triển của tiếng Việt. Bởi “muốn nghiên cứu lịch sử tiếng Việt thì cần tìm các di tích hóa thạch trong các phương ngữ” [36; 259] trong đó có địa danh.
    6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
    6.1. Phương pháp miêu tả ngôn ngữ học
    “Phương pháp miêu tả là hệ thống những thủ pháp nghiên cứu được vận dụng để thể hiện đặc tính của các hiện tượng ngôn ngữ trong một giai đoạn phát triển nào đó của nó.” [50; 422]. Phương pháp miêu tả được chia thành hai thủ pháp: thủ pháp giải thích bên ngoài và thủ pháp giải thích bên trong. Thủ pháp giải thích bên trong sử dụng các thao tác phân loại, hệ thống hóa, định lượng thống kê và các thủ pháp phân tích, tổng hợp khi nghiên cứu các thành tố trong cấu tạo địa danh, xác định các phương thức định danh, ý nghĩa các thành tố và sự biến đổi của địa danh. Bên cạnh đó, sự ra đời và tồn tại của địa danh chịu sự tác động mạnh mẽ của điều kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội. Do vậy, thủ pháp giải thích bên ngoài cũng được vận dụng khi đặt địa danh trong mối quan hệ với các yếu tố địa lí tự nhiên, lịch sử, xã hội, văn hóa tộc người, . và thao tác so sánh địa danh Thanh Hóa với địa danh của các địa phương khác. Các phương diện của địa danh được xem xét, phân tích, miêu tả một cách thấu đáo và chính xác hơn khi vận dụng theo thủ pháp này.

    6.2. Phương pháp điền dã ngôn ngữ học
    Phương pháp điền dã ngôn ngữ học được vận dụng khi thu thập ngữ liệu. Khảo sát, thu thập ngữ liệu về địa danh Thanh Hóa được tiến hành theo nguyên tắc “thu hẹp đào sâu để chọn mẫu điển hình và mở rộng phổ tra để tìm hệ thống” [152; 8]. Để có nguồn tư liệu, chúng tôi tiến hành thu thập từ hai nguồn chính: điều tra điền dã thực tế và điều tra khảo sát qua các tài liệu về địa phương.
    - Điền dã là thủ pháp điều tra trực tiếp các địa danh có trên địa bàn trong thời điểm hiện tại (tính đến 2010). Trình tự được tiến hành theo các bước: xây dựng mẫu phiếu, xác định các điểm khảo sát, thực địa, thu thập thông tin theo mẫu phiếu bằng cách gặp gỡ phỏng vấn trực tiếp người dân, trưởng thôn, cán bộ văn hóa của các địa phương, người cao tuổi, .
    - Bên cạnh nguồn tư liệu điền dã, chúng tôi còn thu thập tư liệu qua các tài liệu về địa phương. Đối với việc thu thập ngữ liệu qua các tài liệu, chúng tôi tập trung khai thác các tài liệu về địa phương Thanh Hóa, đặc biệt là những tài liệu liên quan đến địa bàn của các huyện vùng đồng bằng. Đó là các tài liệu địa chí, địa dư, các thư tịch cổ, hương ước, lịch sử làng, bản đồ qua các thời kì. Đối chiếu để tìm ra các tên gọi chính xác qua các thời kì trước và sau của một đối tượng.
    Ngoài ra, luận án sử dụng các phương pháp, thủ pháp khoa học khác như thống kê, so sánh, mô hình hóa, . để làm rõ đặc điểm, đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa.
    7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
    Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính của luận án có 4 chương:
    Chương 1: Cơ sở lí thuyết về địa danh và một số vấn đề về địa bàn Thanh Hóa
    Chương 2: Cấu tạo của địa danh Thanh Hóa
    Chương 3: Phương thức định danh trong địa danh Thanh Hóa
    Chương 4: Các bình diện ngôn ngữ - văn hóa thể hiện trong ý nghĩa và sự biến đổi của địa danh Thanh Hóa
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...