Tiến Sĩ Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 11/5/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Trang
    LỜI CAM ĐOAN i
    MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ v
    MỞ ĐẦU 1
    1. Lí do chọn đề tài 1
    2. Lịch sử vấn đề 3
    3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 10
    4. Đối tượng, phạm vi và nguồn tư liệu của luận án 11
    5. Phương pháp nghiên cứu 12
    6. Đóng góp mới của luận án 13
    7. Cấu trúc của luận án 13
    Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÍ THUYẾT LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 14
    1.1. Lí thuyết về hội thoại 14
    1.1.1. Khái niệm hội thoại 14
    1.1.2. Vận động hội thoại 15
    1.1.3. Các dạng thức hội thoại 19
    1.1.4. Ngôn ngữ hội thoại 24
    1.2. Tác phẩm văn học, nhân vật văn học 25
    1.2.1. Tác phẩm văn học 25
    1.2.2. Nhân vật văn học 26
    1.3. Giới thiệu tác giả và tác phẩm Chu Lai 32
    1.3.1. Nhà văn Chu Lai 32
    1.3.2. Các tác phẩm của Chu Lai 33
    1.3.3. Hệ thống nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai 37
    1.4. Ngôn ngữ nhân vật và từ ngữ lời thoại nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai 40
    1.5. Tiểu kết 45
    Chương 2. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI QUA TỪ NGỮ XƯNG HÔ 46
    2.1. Một số vấn đề chung về từ ngữ xưng hô trong tiếng Việt 46
    2.1.1. Khái niệm từ xưng hô trong tiếng Việt 46
    2.1.2. Chức năng của từ xưng hô trong tiếng Việt 47
    2.2. Các loại từ ngữ xưng hô trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai 48
    2.2.1. Từ xưng hô là đại từ 48
    2.2.2. Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc và các danh từ khác 57
    2.3. Từ xưng hô và các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai 75
    2.3.1. Mối quan hệ giữa xưng hô và kiểu nhân vật 75
    2.3.2. Từ xưng hô của một số kiểu nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai 77
    2.4. Vai trò của từ xưng hô trong việc hình thành đặc trưng ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai 88
    2.4.1. Từ xưng hô góp phần bộc lộ đặc điểm, tính cách, hoàn cảnh . của nhân vật trong tác phẩm 88
    2.4.2. Vai trò của từ xưng hô trong việc khắc họa đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai 91
    2.5. Tiểu kết 95
    Chương 3. ĐẶC ĐIỂM NGÔN NGỮ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT CHU LAI QUA TỪ THÔNG TỤC, QUÁN NGỮ VÀ THÀNH NGỮ 97
    3.1. Từ thông tục 97
    3.1.1. Khái niệm 97
    3.1.2. Từ thông tục trong lời thoại nhân vật 98
    3.1.3. Vai trò của từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai 125
    3.1.4. Một vài so sánh bước đầu từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai với từ thông tục trong ngôn ngữ nhân vật của một số nhà văn khác . 128
    3.2. Hệ thống quán ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai 131
    3.2.1. Vài nét về quán ngữ 131
    3.2.2. Vai trò của quán ngữ qua các lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai 131
    3.3. Các loại thành ngữ trong ngôn ngữ nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai 133
    3.3.1. Vài nét về thành ngữ tiếng Việt 133
    3.3.2. Vai trò của việc sử dụng các thành ngữ qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai 134
    3.4. Tiểu kết 140
    KẾT LUẬN 141
    DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 144
    TÀI LIỆU THAM KHẢO 145
    TÁC PHẨM TRÍCH DẪN LÀM DẪN CHỨNG 157
    PHẦN PHỤ LỤC 159


    MỤC LỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ
    Trang
    Bảng 1.1. Thống kê số lượng nhân vật chia theo giới tính và nghề nghiệp chức vụ trong 10 cuốn tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai 39
    Bảng 2.1. Bảng thống kê tần số sử dụng ĐTNX trong lời thoại nhân vật của tiểu thuyết Chu Lai 49
    Bảng 2.2. Số lượng và tần số xuất hiện các từ xưng hô có nguồn gốc từ danh từ thân tộc và các danh từ khác của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai 58






    MỞ ĐẦU

    1. Lí do chọn đề tài
    1.1. “Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu nhất của con người” (V.I Lênin). Giao tiếp bằng ngôn ngữ được chia thành hai phong cách: phong cách nói (phong cách khẩu ngữ) và phong cách viết (phong cách sách vở). Tác phẩm văn học là sản phẩm giao tiếp thuộc phong cách viết nhưng có tính tích hợp cả hai phong cách (nói và viết) thành một dạng giao tiếp đặc thù: giao tiếp nghệ thuật.
    Văn học là tấm gương phản ánh đời sống xã hội. Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, do vậy, thể hiện một cách sinh động hoạt động giao tiếp của con người trong xã hội thông qua sự sáng tạo của nhà văn. Ở góc độ nghiên cứu, ngôn ngữ học hiện đại đang chuyển sang một hướng tiếp cận mới là tìm hiểu sự hành chức của ngôn ngữ trong cuộc sống và cuộc sống trong ngôn ngữ. Vì vậy, việc khảo sát tìm hiểu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một cách tiếp cận phù hợp với xu hướng nghiên cứu mới cả về phương diện lí luận chung (đặc điểm, vai trò, cơ chế hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp nói chung, giao tiếp nghệ thuật nói riêng) và phương diện cụ thể (đặc điểm, vai trò, các quy tắc hoạt động của ngôn ngữ trong tác phẩm văn học).
    1.2. Các tác phẩm văn học Việt Nam sau 1975 đến nay, trong đó có thể loại tiểu thuyết, đã góp phần không nhỏ trong việc tạo nên bản sắc, diện mạo riêng cho thời kỳ văn học sau chiến tranh. Sự đổi mới về đề tài, cách miêu tả hiện thực, quan niệm nghệ thuật về con người, đặc biệt là phong cách ngôn từ thể hiện rất rõ trong các tác phẩm văn học thời kì này. Trong số các nhà văn có nhiều tác phẩm thành công, tạo ra phong cách, giọng điệu riêng, người đầu tiên và tiêu biểu nhất phải kể đến là nhà văn Chu Lai. Các tác phẩm của nhà văn đã phản ánh được nhiều vấn đề nóng bỏng hiện nay về hiện thực xã hội; các nhân vật trong tác phẩm của Chu Lai được mô tả là người lính vừa mang cốt cách anh hùng trận mạc (thời chiến) vừa mang đặc điểm của con người sống trong nhiều áp lực, thử thách của quãng đời phía sau chiến trận (thời bình). Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Chu Lai, đặc biệt là ngôn ngữ nhân vật, có nhiều đặc thù đáng được quan tâm “có những trang hấp dẫn, người đọc đã cầm đến sách là phải theo đuổi câu chuyện đến cùng .” [34, tr.9]. “Dấu vết thời đại đã ảnh hưởng và quy định cách nói năng, đối đáp, nhiều lớp từ mới được hình thành, quan niệm về lời nói cũng được bổ sung những sắc thái biểu cảm mới. Ngôn ngữ tiểu thuyết gần với ngôn ngữ đời thường, giàu tính khẩu ngữ. Ngôn ngữ trong các tiểu thuyết biểu hiện sự cá tính hoá mạnh mẽ, tính cách nào, lời lẽ ấy. Cách nói trần trụi dân dã, thẳng thắn, bạo dạn” [34, tr.16] của các nhân vật là những điểm nổi trội trong tác phẩm của Chu Lai.
    Vì vậy, ở phương diện ngôn ngữ, tiểu thuyết Chu Lai có thể gợi mở nhiều vấn đề mà ngôn ngữ học đang quan tâm, nhất là ở khía cạnh sự hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp nghệ thuật, như: đặc điểm, vai trò của từ ngữ trong tổ chức lời thoại; sự hành chức của ngôn từ thể hiện trong ngôn ngữ nhân vật; ngôn ngữ đã thực hiện chức năng phản ánh và chức năng tổ chức phát ngôn, thể hiện phong cách, giọng điệu tác phẩm và tác giả như thế nào
    1.3. Nghiên cứu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học nói chung, nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai nói riêng, không chỉ có ý nghĩa về mặt lí luận (góp phần xác định về phong cách giao tiếp, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, ngôn ngữ nhân vật, các quy tắc giao tiếp) mà còn có ý nghĩa đóng góp vào thực tiễn (cung cấp nguồn ngữ liệu để làm rõ sự hành chức của ngôn từ trong giao tiếp nghệ thuật), cũng như tính ứng dụng thực hành của đề tài (góp phần vào việc giảng dạy tác giả, tác phẩm; phong cách ngôn ngữ nghệ thuật; diễn ngôn và phân tích diễn ngôn trong nhà trường).
    Từ những căn cứ lí luận và thực tiễn trên đây, chúng tôi lựa chọn đề tài luận án: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai.
    2. Lịch sử vấn đề
    2.1. Những hướng nghiên cứu về ngôn ngữ trong giao tiếp và hội thoại
    Việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến ngôn ngữ trong hoạt động giao tiếp đã trở thành một trong những hướng được chú ý của ngôn ngữ học hiện đại. Những kết quả nghiên cứu ở lĩnh vực này thể hiện rõ trong các công trình của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới, bắt đầu từ luận điểm quan trọng bậc nhất của F.de Saussure trong cuốn Giáo trình ngôn ngữ học đại cương (1916) và sau đó được các nhà ngôn ngữ học khai thác theo những hướng khác nhau. Có thể kể đến những hướng nghiên cứu chính, như: nghiên cứu về dụng học - Pragmatics (J.L. Austin, 1965; Ch.W. Morris, 1966; J.R. Searle, 1969); hướng nghiên cứu về Ngôn ngữ học xã hội - Socio- Linguistics (Nikolski, 1920; E.d Sapir, O.Jesperson, 1922 .); hướng nghiên cứu về Ngôn ngữ học văn bản - Text Linguistics (L.Bloomfield (1926), E.Benveniste (1960), A.Reformatxky (1967), v.v
    Ở hướng nghiên cứu dụng học, các nhà ngôn ngữ học xác định có 4 vấn đề: sự chiếu vật và chỉ xuất, nghĩa tường minh và hàm ẩn, các hành động ngôn ngữ và lý thuyết hội thoại. Trong các vấn đề đó, lí thuyết hội thoại (bàn về lĩnh vực giao tiếp đối thoại) được xem là vấn đề trọng tâm. Theo M. Bakhtin, “Ngôn ngữ chỉ sống trong sự giao tiếp đối thoại giữa những người sử dụng ngôn ngữ. Sự giao tiếp đối thoại chính là lĩnh vực đích thực của cuộc sống của ngôn ngữ. Toàn bộ cuộc sống của ngôn ngữ, trong bất kì lĩnh vực nào sử dụng nó (sinh hoạt, sự vụ, khoa học, nghệ thuật v.v .) đều thấm nhuần những quan hệ đối thoại .” [2, tr.172). Nghiên cứu ngôn ngữ hội thoại nói chung, ngôn ngữ nhân vật nói riêng “không thể tách nó ra khỏi lĩnh vực lời nói, tức khỏi ngôn ngữ với tư cách là một hiện tượng toàn vẹn cụ thể” [2, tr.172].
    Tiếp thu và phát triển quan điểm và kết quả của ngôn ngữ học thế giới, các nhà ngôn ngữ học Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực ngữ dụng học, ngôn ngữ học xã hội, ngôn ngữ học văn bản đề cập đến sự hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp [thể hiện trong các tài liệu: 6, 20, 23, 47, 54, 70, 93, 105]. Riêng về vấn đề ngôn ngữ hội thoại, ngôn ngữ nhân vật, các hành động ngôn ngữ, đã có nhiều công trình nghiên cứu ở các quy mô khác nhau (chuyên luận, giáo trình, luận án, luận văn, bài báo) đề cập đến ở những mức độ khác nhau (từ những vấn đề lí luận, các nguyên lí, khái niệm đến thống kê, miêu tả, phân tích các đặc trưng, cách thức hoạt động của các đơn vị trong hoạt động giao tiếp cụ thể từ tiếng Việt).
    Trong các công trình trên, các tác giả đã nêu lí thuyết hội thoại, nhận xét đánh giá về đặc điểm của hội thoại, các phương diện của hội thoại. Bàn về hội thoại và vai trò của nó trong nghiên cứu, Đỗ Hữu Châu nhấn mạnh:“Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thường xuyên, phổ biến của sự hành chức ngôn ngữ. Các hình thức hành chức khác của ngôn ngữ đều được giải thích dựa vào hoạt động căn bản này . Vấn đề phải nghiên cứu sự hành chức của những cặp trả lời như cặp hỏi/trả lời theo một quan điểm hội thoại, tức trong sự đối đáp của các nhân vật giao tiếp trong một hoàn cảnh nhất định ” [20, tr.276, 267]. Nhiều công trình bàn về các lĩnh vực của hội thoại, như: Về ngữ nghĩa của lời (Hoàng Phê, 1981); Phân tích các nhân tố trong hội thoại (Nguyễn Thiện Giáp, 1999), Ngữ nghĩa lời hội thoại (Đỗ Thị Kim Liên, 1999), v.v . Một số công trình bàn sâu về hội thoại, miêu tả, phân tích các nhân tố của hội thoại, vai trò chức năng của các lời thoại trong giao tiếp ngôn ngữ ở các ngữ cảnh. Trong đó có những công trình nghiên cứu chuyên sâu về ngôn ngữ hội thoại trong các ngữ cảnh giao tiếp. Chẳng hạn, phân tích về vai trò của từ trong hoạt động giao tiếp (Bùi Minh Toán, 1999); bàn về vai xã hội và ứng xử trong giao tiếp (Nguyễn Như Ý, 1990); phân tích đặc điểm của khẩu ngữ tiếng Việt và rèn luyện kỹ năng giao tiếp (Nguyễn Chí Hòa, 2009); về từ xưng hô trong gia đình đến ngoài xã hội của người Việt (Bùi Minh Yến, 2001) .
    2.2. Những hướng nghiên cứu ngôn ngữ và ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn học
    Cùng với việc nghiên cứu ngôn ngữ trong các bối cảnh giao tiếp, là những công trình bàn về ngôn ngữ và ngôn ngữ trong giao tiếp nghệ thuật nói chung, trong tác phẩm văn học nói riêng. Để xác định ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, người ta làm rõ mối quan hệ giữa ngôn ngữ phong cách viết và phong cách nói: “ .Ngay trong phong cách nói cũng có sự phân biệt giữa lời nói được chọn lọc, trau giồi (ví dụ như lời diễn giảng, thuyết trình, lời phát biểu chính thức có chuẩn bị sẵn .) với lời nói chưa được chọn lọc kĩ và trau giồi cẩn thận (ví dụ như trong nói năng thân mật thông thường hàng ngày, thậm chí có thể chấp nhận cả tính chất thông tục trong đó). Loại thứ nhất ở đây nhích gần về phía ngôn ngữ thuộc phong cách viết hơn, còn loại thứ hai, từ bản chất của nó, được gọi đích danh là khẩu ngữ - một tên gọi mà tuy không nói ra một cách hiển minh, nhưng ít nhiều bên trong, người ta có ý phân biệt nó với ngôn ngữ nói, nói chung. Như thế, có thể nhận ra trong từ vựng ba lớp từ mang đặc điểm của ba phong cách: lớp từ khẩu ngữ, lớp từ ngữ thuộc phong cách viết, và cuối cùng là lớp từ ngữ trung tính (hoặc còn gọi: trung hoà về phong cách) có thể dùng trong mọi phong cách khác nhau” [29, tr.23]. Bàn về phong cách ngôn ngữ trong tác phẩm văn học, các tác giả cho rằng ngôn ngữ trong tác phẩm văn học cũng có những yếu tố mang phong cách khẩu ngữ theo lối “mô phỏng ngôn ngữ tự nhiên”. Điều đó được thể hiện trong lời thoại nhân vật: “Lời đối thoại giữa các nhân vật là một thành phần chủ yếu trong kết cấu lời nói của tác phẩm tự sự. Chức năng chủ yếu của đối thoại không chỉ mang tính chất miêu tả hay chuyển dẫn, trình bày sự kiện mà còn là bộc lộ tính cách, tâm lí của nhân vật và quan điểm tư tưởng” [68, tr.194].
    Hội thoại là hình thức giao tiếp thường xuyên, phổ biến và liên tục của cuộc sống hàng ngày. Gần đây, dựa vào lí thuyết hội thoại mà nhiều tác giả đề cập đến nghệ thuật giao tiếp, như: Giao tiếp bất kì ai của Jo Condrill - Bennie Bough (2001), Ngữ cảnh và giao tiếp, Phân tích hội thoại của Nguyễn Thiện Giáp (1999) . Sự phát triển này cho thấy mảnh đất hội thoại ngày càng màu mỡ được nhiều nhà nghiên cứu khám phá. Trong các văn bản văn học nhất là thể loại tự sự, hội thoại góp phần thể hiện phẩm chất nhân vật, tình cảm và tư tưởng của nhà văn tác động đến bạn đọc sâu sắc.
    Nhiều bài viết, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ cũng đã tìm hiểu các phương diện khác nhau liên quan đến ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm văn học. Chẳng hạn, Ngôn ngữ tác giả trong truyện Nguyễn Tuân (Đặng Lưu, 2006), Khảo sát ngôn ngữ hội thoại của nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp (Lê Thị Trang, 2002); Hội thoại trong truyện ngắn Nam Cao (Mai Thị Hảo Yến, 2006); Lời độc thoại nội tâm nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Thị Thu Huệ (Lê Thị Sao Chi, 2010), v.v .
    Qua những công trình đã kể một cách rất khái quát và có tính đại diện trên, phần nào ta có thể hình dung được vấn đề ngôn ngữ trong giao tiếp, hội thoại, ngôn ngữ tác giả, ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm . đã được nêu ra và bàn luận về mặt lí thuyết và phân tích miêu tả về mặt thực tiễn từ nhiều góc độ và thu được nhiều kết quả rất có ý nghĩa, làm cơ sở cho những hướng nghiên cứu đầy triển vọng về sự hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội.
    2.3. Những công trình viết về tác phẩm của Chu Lai từ góc độ văn học và ngôn ngữ học
    2.3.1. Nghiên cứu tác phẩm của Chu Lai từ góc độ phê bình văn học
    Khi nghiên cứu, đánh giá về tác phẩm Chu Lai, nhìn chung, các nhà nghiên cứu phê bình khẳng định thành công của Chu Lai là ở đề tài chiến tranh với hình tượng trung tâm là người lính. Chiến tranh và người lính trong sáng tác của Chu Lai được phản ánh dưới nhiều góc độ khác nhau chủ yếu bằng cái nhìn sử thi và thế sự. Điều đáng chú ý là cách xây dựng nhân vật trong sáng tác của Chu Lai được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Bùi Việt Thắng viết: “Nhân vật Chu Lai được thể hiện như những con người tâm linh. Họ sống bởi những ám ảnh của ảo giác, hối thúc bởi sự sám hối, luôn tìm kiếm sự giải thoát. Đó là những con người trở về sau chiến tranh bị mất thăng bằng, khó tìm được sự yên ổn trong tâm hồn. Họ sống trong cảm giác không bình yên . Chu Lai làm người đọc bất ngờ vì những khám phá nghệ thuật của mình: Nhân vật Chu Lai thường tự soi tỏ mình, khám phá mình, khám phá một bản ngã hay là một con người trong con người” [124, tr.104]. Hồng Diệu nhận xét: “Chu Lai là nhà văn thuỷ chung với đề tài chiến tranh, anh có nhiều tác phẩm viết về đề tài người lính trên cả ba mặt trận: Văn học - Sân khấu - Điện ảnh” [34, tr.6]. Trần Quốc Huấn trong Người chiến sĩ viết văn hôm nay - đội ngũ kế tục những nhà văn chiến sĩ, khẳng định phẩm chất của người lính trong chiến tranh: “Trong truyện Chu Lai, cái vốn tri thức văn hóa, trí tuệ sáng suốt của người lính trẻ đã thấm nhuyễn một cách tự nhiên vào từng chi tiết nhỏ của truyện, trong từng phán đoán nhạy bén, quả quyết, để dẫn tới chiến thắng cuối cùng ở nhân vật” [65, tr.33]. Viết về người lính sau hoà bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kỳ đổi mới, Nguyễn Hương Giang cho rằng: “Sự thật về chiến tranh hôm nay được nhìn lại là một sự thật đã trải qua những năm tháng day dứt, trăn trở trong tâm hồn nhà văn Chu Lai, hơn thế, nó thực sự là những nếm trải của người “chịu trận”, “người trong cuộc” [45, tr.20]. Lý Hoài Thu cũng khẳng định: “Dù trực tiếp viết về dĩ vãng mịt mù bom đạn hay chuyển dịch sang tiếp cận những “kênh” thông tin mới xô bồ của thời hiện tại, bao giờ Chu Lai cũng nghiền ngẫm suy tư về hiện thực với sự nhiệt tâm và lòng trung thực của người lính . Nếu như trước kia, các nhân vật của anh được mô tả chủ yếu ở cốt cách anh hùng trận mạc thì hiện nay ( .) Chu Lai tập trung khai thác quãng đời thứ hai: quãng đời phía sau chiến trận của người lính” [125, tr.63].
    2.3.2. Nghiên cứu tác phẩm của nhà văn Chu Lai từ góc độ thi pháp học và ngôn ngữ học
    Đánh giá về phương diện nghệ thuật của tiểu thuyết Chu Lai, Phan Cự Đệ trong Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi mới cho rằng, tiểu thuyết Chu Lai “không chỉ đa dạng trong các phương thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc thoại nội tâm, “dòng ý thức”, nghệ thuật đồng hiện và có những thành công nhất định” [41, tr.18]. Về tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc, Hồng Diệu đánh giá cao nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách tạo tình huống, những xung đột, đặc biệt là cách nhìn khá mạnh dạn của Chu Lai, “có những trang hấp dẫn, người đọc đã cầm đến sách là phải theo đuổi câu chuyện đến cùng” [33, tr.9].
    Xuân Trường nhận xét về nghệ thuật và ngôn ngữ trong tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng qua Một vài cảm nhận sau khi đọc “Ăn mày dĩ vãng”, báo Văn nghệ số 26/1993: “Có thể gọi tác phẩm này đầy chất lính, giọng văn băm bổ, sôi động, các thứ tình cảm, suy tư đều đẩy đến tận cùng. Cốt truyện có pha chút ly kỳ bí hiểm kiểu kiếm hiệp, đọc rất cuốn hút. Có những chương, những đoạn anh viết về chiến tranh hết sức sinh động, nếu không là người trong cuộc, không dựng lại được không khí một địa bàn chiến đấu khá đặc biệt này . Ăn mày dĩ vãng còn có chỗ chưa hoàn mỹ. Chính cái giọng văn băm bổ sôi động ấy, chính cái cách đẩy tình cảm, tư duy đến tận cùng ấy tạo ra mặt trái khác bởi tính thái quá. Đấy là sự cường điệu trong xử lý tình tiết, sự lộng ngôn trong câu văn. Và cũng vì say sưa với cốt truyện, tác giả đã thiếu chặt chẽ trong lý giải tính cách nhân vật của mình. Từ bỏ quá khứ với một người đàn bà dũng cảm, trung hậu như Ba Sương, quả thật không phải là điều quá dễ dàng. Dù sao đây cũng là cuốn tiểu thuyết sáng giá về chiến tranh và người lính; với tầm tư tưởng đúng đắn, trong sáng rất đáng trân trọng, khích lệ” [tr.34].
    Chu Bích Thu trong bài viết Những nỗ lực sáng tạo của tiểu thuyết Việt Nam từ sau đổi mới đề cập đến một khía cạnh của thi pháp và ngôn ngữ trong tiểu thuyết sau 1975 và trong tiểu thuyết Chu Lai: “Nhiều tiểu thuyết sau những năm đổi mới đến nay đã sử dụng mô típ giấc mơ, giấc mơ chiêm bao như một ngôn ngữ độc thoại đặc biệt để giải mã thế giới vô thức của con người. Thủ pháp này thể hiện rõ trong các tiểu thuyết Thân phận của tình yêu (Bảo Ninh), Ăn mày dĩ vãng (Chu Lai)” [tr.590]. Tác giả đã lưu ý đến một đặc điểm của ngôn ngữ tiểu thuyết sau năm 1975: “Dấu vết thời đại đã ảnh hưởng và quy định cách nói năng, đối đáp, nhiều lớp từ mới được hình thành, quan niệm về lời nói cũng được bổ sung những sắc thái biểu cảm mới. Ngôn ngữ tiểu thuyết gần với ngôn ngữ đời thường, giàu khẩu ngữ ( .). Ngôn ngữ trong các tiểu thuyết biểu hiện sự cá tính hoá mạnh mẽ, tính cách nào, lời lẽ ấy. Cách nói trần trụi dân dã của người lính (Ăn mày dĩ vãng), cách nói thẳng thắn bạo dạn của cánh nhà báo (Dấn thân, Một ngày và một đời)” [tr. 588, 589].
    Nhiều ý kiến đi sâu vào phân tích riêng từng tác phẩm. Ở Cuộc trao đổi về tiểu thuyết Ăn mày dĩ vãng in trên báo Văn nghệ số 39/1992 xuất hiện những luồng ý kiến khác nhau, song chủ yếu vẫn là khen ngợi, đó là: “Chu Lai đã “nhử” được người đọc bởi một cốt truyện li kì” (Cao Tiến Lê), “Trên từng trang viết lộ rõ tâm huyết của tác giả tuy có khi tư tưởng mới chỉ dừng lại ở những câu triết lý” (Thiếu Mai). Trong bài viết Cuộc tìm tòi về tiểu thuyết, tác giả Đỗ Văn Khang đã đề cập đến nghệ thuật xây dựng nhân vật: “Lối chạm khắc nhân vật trong Ăn mày dĩ vãng cũng có nhiều đóng góp mới. Ngày trước nhân vật thường mang một ý nghĩa phổ quát, tức là có cái gì đó chung cho cả lớp người ., còn Hai Hùng của Chu Lai có số phận được miêu tả như một yếu tố cá biệt độc nhất nhưng vẫn mang tính điển hình. Nhân vật Hai Hùng của Chu Lai tàn tạ về thân xác, nhưng vạm vỡ về tâm hồn. Hai Hùng có bộ khung “xuống cấp” vì thương tật, vì sự hủy hoại của mọi thứ vớ vẩn thời hậu chiến, nhưng vẫn nhất quán một bản lĩnh, một kiểu xông pha gần như bạt mạng vì không chịu chấp nhận một cái gì lập lờ tráo trở” [tr.5].
    Tác giả Hồng Diệu trong Vấn đề của tiểu thuyết Vòng tròn bội bạc viết: “Với nghệ thuật xây dựng nhân vật, cách tạo tình huống, những xung đột, đặc biệt là cách nhìn khá mạnh dạn, Chu Lai có những trang hấp dẫn, người đọc đã cầm đến sách là phải theo đuổi câu chuyện đến cùng” [33, tr.41].
    Từ góc độ nghiên cứu ngôn ngữ học, gần đây, một số luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ cũng đã đề cập một số đặc điểm ngôn ngữ tác phẩm, ngôn ngữ nhân vật trong các truyện ngắn và tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai. Chẳng hạn như: Hành động trần thuật qua lời thoại nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Chu Lai, Lê Lựu (Cao Xuân Hải, Luận án Tiến sĩ, 2010), Sự thể hiện người lính thời hậu chiến trong tiểu thuyết của Chu Lai (Lê Thị Luyến, Luận văn Thạc sĩ, 2006), Đặc điểm ngôn ngữ truyện ngắn Chu Lai (Nguyễn Thúy Huệ, Luận văn Thạc sĩ, 2007),v.v .
    Như vậy, có thể nói các công trình nghiên cứu về tác phẩm của Chu Lai đã được nhiều tác giả quan tâm và thu được một số kết quả bước đầu nhưng còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục tìm hiểu, nhất là từ góc độ ngôn ngữ học. Các kết quả của người đi trước là những gợi ý, nguồn ngữ liệu quan trọng giúp chúng tôi đi sâu tìm hiểu, nghiên cứu đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai.
    3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
    3.1. Mục đích nghiên cứu
    - Đề tài nhằm làm sáng tỏ một số đặc điểm và vai trò nổi bật của ngôn ngữ nhân vật từ phương diện từ ngữ trong tiểu thuyết Chu Lai.
    - Qua những kết quả phân tích và tổng hợp, đề tài nhằm làm rõ đặc điểm ngôn ngữ nhân vật và phong cách ngôn ngữ của tác phẩm văn học thể hiện trong tiểu thuyết Chu Lai.
    3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    Để đạt được các mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án được xác định là:
    - Tổng hợp những vấn đề lý luận chung liên quan đến đề tài, như: lý thuyết hội thoại, nhân vật và ngôn ngữ nhân vật, vai trò của từ ngữ trong tác phẩm, tác giả và tác phẩm và các vấn đề liên quan khác.
    - Khảo sát, thống kê nguồn ngữ liệu liên quan đến ngôn ngữ hội thoại, các lời thoại trong tiểu thuyết của Chu Lai.
    - Miêu tả, phân tích, nêu vai trò của các lớp từ ngữ tiêu biểu trong việc thể hiện đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai.
    - Tổng hợp, rút ra những đặc điểm nổi trội về sự hành chức của các lớp từ ngữ trong các lời thoại nhân vật và đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong các tác phẩm khảo sát, từ đó góp phần làm rõ phong cách ngôn ngữ của nhà văn Chu Lai.
    4. Đối tượng, phạm vi và nguồn tư liệu của luận án
    4.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu của luận án là khảo sát, làm rõ đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai, nhưng ngôn ngữ nhân vật – xét từ quan điểm tiếp cận của ngôn ngữ học - là một phạm trù rộng, có nhiều phương diện (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, văn bản) và được xem xét từ nhiều góc độ (cấu trúc, ngữ nghĩa, phong cách, ngữ dụng). Trong khuôn khổ của luận án, chúng tôi giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài ở việc tìm hiểu hệ thống từ ngữ thể hiện qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn Chu Lai từ góc độ ngữ dụng.
    4.2. Nguồn tư liệu khảo sát của luận án
    Luận án khảo sát từ ngữ qua lời thoại nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai, gồm các tác phẩm:
    1. Chu Lai (1979), Nắng đồng bằng, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 351.
    2. Chu Lai (1985), Gió không thổi từ biển, Nxb Phụ nữ, Số trang: 186.
    3. Chu Lai (1990), Vòng tròn bội bạc, Nxb Thanh niên, Số trang: 351.
    4. Chu Lai (1990), Bãi bờ hoang lạnh, Nxb Phụ nữ, Số trang: 210.
    5. Chu Lai (1994), Ăn mày dĩ vãng, Nxb Hội Nhà văn, Số trang: 339.
    6. Chu Lai (1999), Phố, Nxb Văn học, Số trang: 339.
    7. Chu Lai (2000), Ba lần và một lần, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 343.
    8. Chu Lai (2002), Cuộc đời dài lắm, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 510.
    9. Chu Lai (2002), Sông xa, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 510.
    10. Chu Lai (2002), Chỉ còn một lần, Nxb Quân đội nhân dân, Số trang: 510.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
    Phương pháp này được dùng để thống kê các lời thoại nhân vật; các từ ngữ tiêu biểu trong ngôn ngữ nhân vật; phân loại các lớp từ ngữ, tính tần số, lượt dùng của từ ngữ . Phương pháp thống kê – phân loại vừa là cơ sở để xác định đối tượng nghiên cứu (từ ngữ của ngôn ngữ nhân vật), vừa là cung cấp các số liệu làm minh chứng cho các luận điểm trong từng chương của luận án.
    5.2. Phương pháp phân tích diễn ngôn
    Phân tích các ngữ liệu trên các bình diện của diễn ngôn hội thoại; tổng hợp để rút ra đặc điểm khái quát về từ ngữ trong tác phẩm và vai trò, ảnh hưởng của đặc điểm đó đến hệ thống chung, từ đó xác định đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật trong tác phẩm và phong cách ngôn từ của tác giả.
    5.3. Phương pháp miêu tả
    Phương pháp miêu tả dùng trong luận án liên quan đến các trường hợp cần làm nổi bật các đặc điểm nào đó trong luận án (chẳng hạn: các lớp từ ngữ trong lời thoại nhân vật, hệ thống từ xưng hô, từ thông tục, v.v .). Các kết quả của phương pháp miêu tả trong luận án là cơ sở để phân tích, tổng hợp, đưa ra các kết luận về đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết của Chu Lai.
    6. Đóng góp mới của luận án
    Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu về đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai ở bình diện từ ngữ từ góc độ ngữ dụng. Công trình đã vận dụng những kiến thức cơ bản của ngữ dụng học để khảo sát, phân tích về ngôn ngữ hội thoại, qua đó nhằm làm rõ sự hành chức của ngôn ngữ trong giao tiếp xã hội nói chung, giao tiếp nghệ thuật nói riêng; đồng thời góp phần làm rõ đặc điểm của ngôn ngữ nhân vật và phong cách ngôn ngữ nghệ thuật trong tiểu thuyết của Chu Lai.
    7. Cấu trúc của luận án
    Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung luận án được trình bày trong ba chương:
    Chương 1: Những vấn đề lý thuyết liên quan đến đề tài
    Chương 2: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai qua từ ngữ xưng hô
    Chương 3: Đặc điểm ngôn ngữ nhân vật trong tiểu thuyết Chu Lai qua từ thông tục, quán ngữ, thành ngữ.
     
Đang tải...