Tiểu Luận Cương lĩnh của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930)

Thảo luận trong 'TT Hồ Chí Minh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    1. Cương lĩnh của Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (2-1930)
    Cương lĩnh đầu tiên của Đảng được đề ra tại Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong nước có ý nghĩa như Đại hội để thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị do đồng chí Nguyễn Ái Quốc, đại biểu Quốc tế Cộng sản triệu tập và chủ trì, cùng với sự tham dự chính thức của hai đại biểu Đông Dương Cộng sản Đảng (6-1929); hai đại biểu của An Nam Cộng sản Đảng (10-1929) và một số đồng chí Việt Nam hoạt động ngoài nước. Hội nghị họp bí mật ở nhiều địa điểm khác nhau trên bán đảo Cửu Long (Hương Cảng), từ ngày 6-1 đến 7-2-1930, đã thảo luận quyết định thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và nhất trí thông qua 7 tài liệu, văn kiện, trong đó có 4 văn bản: Chánh cương vắn tắt của Đảng, Sách lược vắn tắt của Đảng, Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam hợp thành nội dung Cương lĩnh chính trị của Đảng. Tất cả các tài liệu, văn kiện nói trên đều do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo dựa trên cơ sở vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) của Quốc tế Cộng sản; nghiên cứu các Cương lĩnh chính trị của những tổ chức cộng sản trong nước, tình hình cách mạng thế giới và Đông Dương. Dù là vắn tắt, tóm tắt, song nội dung các tài liệu, văn kiện chủ yếu của Hội nghị được sắp xếp theo một lôgic hợp lý của một Cương lĩnh chính trị của Đảng.
    Trong Chánh cương của Đảng đã nêu "chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản" (1). Đó là mục đích lâu dài, cuối cùng của Đảng và cách mạng Việt Nam. Mục tiêu trước mắt về xã hội làm cho nhân dân được tự do hội họp, nam nữ bình quyền, phổ thông giáo dục cho dân chúng; về chính trị đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến làm cho nước Việt Nam hoàn toàn độc lập, lập chính phủ, quân đội của nhân dân (công, nông, binh); về kinh tế là xóa bỏ các thứ quốc trái, bỏ sưu thuế cho dân cày nghèo, thu hết sản nghiệp lớn của đế quốc giao chính phủ nhân dân quản lý, thu hết ruộng đất chiếm đoạt của đế quốc làm của công chia cho dân cày nghèo, phát triển công, nông nghiệp và thực hiện lao động 8 giờ. Những mục tiêu đó phù hợp với lợi ích cơ bản của dân tộc, nguyện vọng tha thiết của nhân dân ta.
    Sách lược của Đảng nêu rõ Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, thu phục giai cấp, lãnh đạo dân chúng nông dân; liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông; tranh thủ, phân hóa trung tiểu địa chủ và tư sản dân tộc, đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản thế giới để hình thành mặt trận thống nhất đánh đuổi đế quốc, đánh đuổi bọn đại địa chủ và phong kiến, thực hiện khẩu hiệu nước Việt Nam độc lập, người cày có ruộng.
    Chương trình tóm tắt của Đảng và Điều lệ vắn tắt của Đảng nêu chính xác tên Đảng, tôn chỉ của Đảng, hệ thống tổ chức của Đảng từ chi bộ, huyện bộ, thị bộ hay khu bộ; tỉnh bộ, thành bộ hay đặc biệt bộ và Trung ương.
    Toàn bộ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng toát lên tư tưởng lớn là cách mạng dân tộc dân chủ Việt Nam tất yếu đi tới cách mạng xã hội chủ nghĩa, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; sự nghiệp đó là của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam - Đảng Mác - Lênin.
    2. Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10-1930)
    Tháng 10-1930, sau 8 tháng Đảng ra đời, Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời có ý nghĩa như một Đại hội cũng tổ chức tại Hương Cảng do điều kiện trong nước bị đế quốc đàn áp khủng bố gắt gao phong trào cách mạng. Hội nghị họp từ ngày 14-10 đến 31-10-1930 thảo luận và thông qua bản Luận cương chánh trị, án nghị quyết của Trung ương toàn thể Đại hội nói về tình hình hiện tại ở Đông Dương và nhiệm vụ cần kíp của Đảng, Điều lệ Đảng, hợp thành nội dung Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Hội nghị thông qua 17 văn bản là Nghị quyết, Điều lệ của các tổ chức đoàn thể cách mạng ở nước ta, công tác vận động công nhân, nông dân, thanh niên, phụ nữ, binh lính, lập Hội đồng minh phản đế Đông Dương và bản Thông cáo cho các Xứ ủy bổ sung nội dung của Cương lĩnh. Hội nghị Trung ương quyết định đổi tên Đảng Cộng sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đông Dương, bầu đồng chí Trần Phú làm Tổng Bí thư, nên Cương lĩnh thứ hai mà bản Luận cương chánh trị là văn kiện quan trọng, mang tên là Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Đông Dương.
    Luận cương chánh trị do đồng chí Trần Phú (1904 - 1931) dự thảo từ mùa hè đến mùa thu 1930, sau khi được Quốc tế Cộng sản và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc phái về nước, cử bổ sung vào Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, trên cơ sở nghiên cứu lý luận Mác - Lênin, đường lối Đại hội VI (1928) Quốc tế Cộng sản về Đảng Cộng sản và cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới; các tài liệu, văn kiện Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng (2-1930) và khảo sát các phong trào công nhân, nông dân một số tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Thái Bình, khu mỏ than Hồng Gai - Cẩm Phả .
    Từ phân tích tính chất, đặc điểm của xã hội các nước Đông Dương thuộc địa của đế quốc Pháp; những mâu thuẫn kinh tế, giai cấp tạo nên mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân Đông Dương và đế quốc chủ nghĩa Pháp, Luận cương chánh trị của Đảng Cộng sản Đông Dương có những điểm cơ bản giống với Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó là tính chất cách mạng Đông Dương là cách mạng tư sản dân quyền tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa; là độc lập hoàn toàn cho các dân tộc, tự do dân chủ cho nhân dân Đông Dương, lập chính phủ, quân đội nhân dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, đoàn kết với giai cấp vô sản quốc tế, các dân tộc bị áp bức trên thế giới và sử dụng phương pháp cách mạng bạo lực theo phương thức tổng bãi công, bạo động võ trang khi có thời cơ; Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân, trung thành và hy sinh hết thảy vì lợi ích dân tộc, lợi ích giai cấp và nhân dân lao động .(2).
    Tuy vậy, Luận cương chánh trị, Án nghị quyết và Điều lệ Đảng Cộng sản Đông Dương có những điểm khác biệt, nhưng không đối lập về tư tưởng chính trị với Chánh cương, Sách lược và Điều lệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Những điểm khác biệt đó là ở chỗ bỏ tên "Việt Nam Cộng sản Đảng", lấy tên "Đông Dương Cộng sản Đảng"; chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền trong toàn cõi Đông Dương; lực lượng cách mạng chỉ trong công nhân, nông dân, binh lính, chưa thấy hết vai trò của lực lượng yêu nước trong tiểu tư sản, tư sản dân tộc; xác định mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc với nhiệm vụ chống phong kiến, giữa độc lập dân tộc và dân chủ nhân dân tuy biện chứng, sâu sắc nhưng chưa định được xu hướng phát triển nhiệm vụ giải phóng dân tộc có tính quyết định hàng đầu; hệ thống tổ chức của Đảng quy định thêm tổng bộ, xứ bộ, quận bộ, liên khu bộ và Đảng đoàn (3).
    Có những nguyên nhân của sự tương đồng và nguyên nhân của sự khác biệt giữa Cương lĩnh đầu tiên và Cương lĩnh thứ hai của Đảng. Nguyên nhân chính là do nhận thức và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối của Quốc tế Cộng sản về lập Đảng Cộng sản, về cách mạng dân chủ tư sản kiểu mới vào điều kiện nước ta; vai trò của lãnh tụ Đảng, lãnh tụ dân tộc và chính sách phản động đàn áp khủng bố của đế quốc, phong kiến.
    3. những năm 1936-1939
    Cuộc khủng hoảng của hệ thống tư bản chủ nghĩa với những mâu thuẫn gay gắt và toàn diện đã dẫn tới sự xuất hiện chủ nghĩa phát xít - một hình thức thống trị cực kỳ tàn bạo mà bọn tư bản độc quyền sử dụng hòng cứu vãn chế độ tư bản.
    Cuộc khủng hoảng của hệ thống tư bản chủ nghĩa với những mâu thuẫn gay gắt và toàn diện đã dẫn tới sự xuất hiện chủ nghĩa phát xít - một hình thức thống trị cực kỳ tàn bạo mà bọn tư bản độc quyền sử dụng hòng cứu vãn chế độ tư bản. Với sự xuất hiện của chủ nghĩa phát xít mà trục chính của nó là Rôm- Béclin- Tôkiô, nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới đang tới gần. Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản triệu tập Đại hội lần thứ VII tại Matxcơva với sự có mặt của 65 đoàn đại biểu. Đoàn đại biểu của Đảng Cộng sản Đông Dương do đồng chí Lê Hồng Phong dẫn đầu, lần đầu tiên tham dự Đại hội.
    Đại hội VII Quốc tế Cộng sản quyết định những vấn đề quan trọng sau đây:
    Xác định kẻ thù trước mắt của nhân dân thế giới là chủ nghĩa phát xít.
    - Nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít, bảo vệ hoà bình, giành tự do, dân chủ.
    Xây dựng mặt trận thống nhất rộng rãi.
    Dưới ánh sáng của những nghị quyết Đại hội, các Đảng cộng sản Pháp, Tây Ban Nha, Trung Quốc làm nòng cốt trong việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, nhằm đoàn kết mọi lực lượng chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình, đòi dân chủ,tự do. Tháng 5-1936, Mặt trận nhân dân Pháp giành được thắng lợi trong cuộc tổng tuyển cử, tháng 6-1936 lập chính phủ mới. Trước sức ép của Đảng Cộng sản và phong trào cách mạng Pháp, chính phủ đã phải thi hành một số điểm trong chương trình tranh cử của Mặt trận nhân dân Pháp. Với các nước thuộc địa, chính phủ Pháp đã có 3 quyết định rất quan trọng: trả lại tự do cho tất cả tù chính trị, thành lập ủy ban điều tra tình hình các thuộc địa, và thi hành một số cải cách xã hội.
    Ở trong nước, tuy cuộc khủng hoảng kinh tế có dịu đi nhưng kinh tế Đông Dương vẫn trong tình trạng lay lắt. Nền sản xuất phục hồi một cách chậm chạp ở một số ngành như khai thác than và quặng. Sản xuất nông nghiệp không nhích được bao nhiêu. Ngân hàng Đông Dương vẫn tiếp tục đóng vai trò chúa tể, trực tiếp hoặc gián tiếp điều khiển các công ty tư bản lớn thuộc những lĩnh vực kinh tế chủ đạo.
    Để bù đắp những thiệt hại do khủng hoảng kinh tế gây nên, chính quyền thuộc địa mượn tiếng cải cách thuế khóa đã tăng thuế thân Ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ,đặt thêm thuế lợi tức ở Nam Kỳ và thuế cư trú ở các thành phố. Đời sống của các tầng lớp nhân dân vẫn rất khó khăn. Lương công nhân thời kỳ này thấp hơn nhiều so với thời kỳ trước khủng hoảng. Ở nông thôn cuộc sống vẫn tối tăm. Số vô sản ở nông thôn ngày càng đông và hầu như không có lối thoát. Ở thành thị, dân cư đông đúc lên và sống nghẹt thở bởi thuế khóa nặng nề.
    Nhìn chung, do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế và sự đục khoét tàn bạo của chính quyền thực dân, các tầng lớp nhân dân, kể cả tư sản dân tộc, đều cảm thấy ngột ngạt và mong có sự thay đổi trong đời sống kinh tế- xã hội.
    Trước tình hình thế giới và đất nước có nhiều biến đổi, tháng 7 - 1936, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng do Lê Hồng Phong, ủy viên Ban chấp hành Quốc tế Cộng sản chủ trì, đã họp tại Hương Cảng (Trung Quốc) để định ra đường lối và phương pháp đấu tranh mới đưa phong trào cách mạng nước ta tiếp tục phát triển. Hội nghị đã xác định mục tiêu chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Để tập hợp rộng rãi quần chúng nhân dân nhằm thực hiện được mục tiêu đó, Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương (từ tháng 3-1938 được đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương). Hội nghị Trung ương tháng 7 - 1936 là sự vận dụng sáng tạo Nghị quyết của Đại hội VII Quốc tế Cộng sản vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta, kết hợp nhiều hình thức đấu tranh phong phú, lan ra thành một phong trào cách mạng rầm rộ, sâu rộng trên quy mô toàn quốc.
    Mở đầu là phong trào Đại hội Đông Dương. Biết được Quốc hội Pháp sẽ cử các phái đoàn sang điều tra tình hình Đông Dương, Đảng chủ trương phát động một phong trào rộng lớn trong quần chúng nhân dân đấu tranh công khai, hợp pháp nêu lên nguyện vọng về tự do, dân chủ và cải thiện đời sống. Phong trào Đông Dương Đại hội, từ một sáng kiến ở Sài Gòn đã được nhân rộng khắp toàn quốc. Ở Nam Kỳ đến cuối tháng 9-1936 đã thành lập hơn 600 uỷ ban hành động của công nhân, nông dân, viên chức. Nhiều ủy ban hành động có trụ sở, tổ chức sinh hoạt chính trị công khai, vạch trần hiện trạng bất công, cực khổ dưới chế độ thuộc địa tàn bạo, thảo luận các biện pháp đấu tranh thích hợp nhằm đạt được các yêu sách về tự do, dân chủ, cơm áo và hoà bình.
    Tinh thần đấu tranh của các tầng lớp nhân dân đã buộc nhà chính quyền Đông Dương ra Nghị định ngày 11-10-1936, quy định một số quyền lợi của công nhân như thời gian làm việc không được quá 8 giờ/ngày kể từ ngày 1-1-1938 ; công nhân được nghỉ chủ nhật và nghỉ phép năm có lương; cấm bắt phụ nữ và lực cai làm việc ban đêm .
    Nhân dân lao động dựa vào những cơ sở pháp lý đó đấu tranh với giới chủ tư bản và chính quyền thuộc địa nhằm từng bước cải thiện điều kiện lao động và sinh hoạt của mình. Những tháng cuối năm 1936 đã có 361 cuộc bãi công, trong đó có một số cuộc bãi công có quy mô lớn và có tiếng vang trên cả nước như cuộc bãi công của hàng ngàn công nhân mỏ thiếc Tĩnh Túc (Cao Bằng), đặc biệt là cuộc bãi công của 30.000 công nhân mỏ than Hồng Gai - Cẩm Phả tháng 11 - 1936.
    Kế quả của sự phối hợp đấu tranh giữa Mặt trận nhân dân Pháp và nhân dân là đã buộc chính quyền thuộc địa phải trả lại tự do cho 1.532 tù chính trị, phần lớn là các chiến sĩ cộng sản. Ngay sau khi ra khỏi nhà tù thực dân, họ đã lao ngay vào cuộc chiến đấu mới, tổ chức quần chúng. xây dựng lại cơ sở, đưa phong trào cách mạng tiến lên.
    Những tháng đầu năm 1937 đánh dấu bước phát triển mới của phong trào. Từ Nam đến Bắc nhân dân lao động mít tinh biểu dương lực lượng nhân dịp Giúyxtanh Gô đa (Justin Godart), phái viên của Chính phủ Pháp sang điều tra tình hình Đông Dương. Ngày 1-1-1937, Ở Nam Kỳ, 20.000 người đủ các giới, nhất là giới lao động Sài Gòn - Chợ Lớn và nông dân phụ cận đón Gô đa bằng những khẩu hiệu: Hoan nghênh Mặt trận nhân dân Pháp, tự do dân chủ, tự do lập hội, thi hành luật lao động, bỏ thuế thân, toàn xá chính trị phạm .
    Để phong trào tiến lên mạnh mẽ hơn nữa, các cuộc Hội nghị Trung ương Đảng tháng 3 và tháng 9-1937 tập trung giải quyết những vấn đề về tổ chức Đảng chủ trương sử dụng nhiều hình thức tổ chức mới một cách khôn khéo, bình hoạt, tận dụng khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tập hợp lực lượng rộng rãi hơn, mở rộng phong trào hơn nữa. Nhiều quyết định về tổ chức đã được thực hiện: lập Đoàn thanh niên phản đế, Hội cứu tế bình dân, Công hội, Nông hội. Ở nông thôn, các hình thức tổ chức như Hội cấy, Hội lợp nhà, Hội chèo được phát triển rộng khắp, tập hợp hàng triệu quần chúng vì những mục tiêu cụ thể, thiết thực.
    Trong hai năm 1937-1938, Mặt trận Dân chủ Đông Dương đã công bố chương trình hành động tối thiểu và danh sách ứng cử viên của mình vào các Viện dân biểu Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Hội đồng thành phố Hà Nội, Đại hội đồng kinh tế tài chính Đông Dương. Với chính sách liên hiệp rộng rãi, chương trình hành động phản ánh nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân, Mặt trận Dân chủ Đông Dương đã giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử Viện Dân biểu Bắc Kỳ và Viện Dân biểu Trung Kỳ năm 1938.
    Phong trào Mặt trận Dân chủ Đông Dương đạt tới đỉnh điểm với lễ kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động 1-5-1938. Lần đầu tiên Ở Đông Dương, ngày Quốc tế Lao động được tổ chức kỷ niệm công khai, rầm rộ. Tại Hà Nội, lễ kỷ niệm ngày 1-5 được chuẩn bị chu đáo và tổ chức tại khu Đấu Xảo với sự tham gia của 25.000 người đại diện cho các đoàn thể, các giới,các nhóm chính trị.
    Những năm 1936-1939 là thời kỳ có nhiều nét mới trong đời sống văn hóa tư tưởng của đất nước. Ở thời kỳ này, Đảng Cộng sản Đông Dương đã triệt để sử dụng báo chí công khai làm công cụ tuyên truyền hết sức sắc bén. Từ năm 1937, hàng chục tờ báo của Đảng, của Mặt trận Dân chủ và các đoàn thể nối tiếp nhau ra đời, tiêu biểu là các tờ báo Notre voix (Tiếng nói chúng ta). Le Travail (Lao dộng), Tin tức (ở Bắc Kỳ), Nhành lúa, Le Peuple (Nhân dân), Dân chúng, Lao động, Mới (ở Nam kỳ). Cùng với sự nở rộ của báo chí cách mạng công khai, các nhà xuất bản của Đảng ta và Đảng Cộng sản Pháp đã in và phát hành nhiều tập sách về chủ nghĩa Mác, về duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, những tập sách giới thiệu về Liên Xô, về cách mạng Trung Quốc, Mặt trận nhân dân Pháp, Mặt trận nhân dân Tây Ban Nha. Trên văn đàn, nếu như thời kỳ trước năm 1935, văn học lãng mạn chiếm ưu thế thì thời kỳ này nhường chỗ cho văn học hiện thực phê phán. Các tác phẩm Tắt đèn,Việc làng của Ngô Tất Tố, Bỉ vỏ của Nguyên Hồng, Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, Lầm than của Lan Khai . tuy còn những hạn chế nhất định, nhưng đã phản ánh sinh động một hiện thực đau khổ, lầm than của xã hội Việt Nam dưới ách thực dân-phong kiến.
    Kinh nghiệm quý báu nhất của thời kỳ 1936-1939 một thời kỳ có một không hai ở thuộc địa là biết triệt để lợi dụng mọi khả năng hợp pháp để tập hợp lực lượng, tổ chức đội quân chính trị hùng hậu trong Mặt trận Dân chủ Đông Dương, kết hợp khéo léo, chặt chẽ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp, với hoạt động bí mật và không hợp pháp để từng bước đưa phong trào tiến lên. Vì vậy, nếu như cao trào cách mạng 1930-1931 là cuộc tổng diễn tập đầu tiên thì cao trào cách mạng 1936-1939 là cuộc tổng diễn tập thứ hai cho thắng lợi của Cách mạng tháng Tám sau này.
    4. Những năm 1939-1945
    Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ở châu Âu, quân đội phát xít Đức tiến công nước Pháp, Chính phủ phản động Pháp đầu hàng, làm tay sai cho Đức (tháng 6-1940). Ở Viễn Đông, quân đội phát xít Nhật tiến sát biên giới Việt-Trung.
    Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Ở châu Âu, quân đội phát xít Đức tiến công nước Pháp, Chính phủ phản động Pháp đầu hàng, làm tay sai cho Đức (tháng 6-1940). Ở Viễn Đông, quân đội phát xít Nhật tiến sát biên giới Việt-Trung.
    Thực dân Pháp ở Đông Dương lo sợ cả ngọn lửa cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Đông Dương, lẫn sự đe doạ nhảy vào Đông Dương của phát xít Nhật.
    Để đối phó, một mặt thực dân Pháp thực hiện chính sách thời chiến, ra sức phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào cách mạng của nhân dân ta. Hàng vạn vụ khám xét, bắt bớ diễn ra khắp nơi, lệnh "tổng động viên" được ban bố cùng với chính sách "kinh tế chỉ huy" được thi hành, nhằm tăng cường vơ vét sức người và sức của ở thuộc địa để cung ứng cho cuộc chiến tranh đế quốc. Chính sách phản động trên của thực dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào cảnh sống ngột ngạt bần cùng. Mặt khác, thực dân Pháp thi hành chính sách thoả hiệp, tiếp tay cho Nhật mở rộng chiến tranh đế quốc xâm lược.
    Ngày 22-9-1940, Nhật cho quân tiến công Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, đổ bộ vào Đồ Sơn. Pháp nhanh chóng đầu hàng Nhật ở Lạng Sơn. Sau đó Nhật lấn dần Pháp, buộc Pháp ký hết hiệp định này đến hiệp định khác, nhằm biến Đông Dương thành thuộc địa và căn cứ chiến tranh của chúng.
    Cùng với việc buộc Pháp nhượng bộ, Nhật ra sức lôi kéo một số phần tử cơ hội trong bộ phận địa chủ và tư sản phản động người Việt Nam làm tay sai phục vụ cho chúng. Bọn này núp dưới hình thức đảng phái chính trị (Đại Việt, Phục Quốc .), hình thức tôn giáo để hoạt động tuyên truyền về văn minh và sức mạnh của Nhật.
    Như vậy, "Mùa thu năm 1940, phát xít Nhật đến xâm lược Đông Dương . thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ra rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xíchdata:image/png;base64,iVBORw0KGgoAAAANSUhEUgAAAAEAAAABAQMAAAAl21bKAAAAA1BMVEXh5PJm+yKVAAAAAXRSTlMAQObYZgAAAApJREFUCNdjYAAAAAIAAeIhvDMAAAAASUVORK5CYII=" class="mceSmilieSprite mceSmilie7" alt=":p" title="Stick Out Tongue :p">háp và Nhật"
    Quân đội phát xít Nhật chiếm đóng Đông Dương trong khi thực dân Pháp vẫn còn nắm quyền cai trị, vừa là "người chủ thống trị" nhân dân ta, vừa làm tay sai cho Nhật. Dân ta "Một cổ đôi tròng, đã làm trâu ngựa cho Tây, lại làm nô lệ cho Nhật"
    Nhật bắt Pháp phải cung cấp nhiều nguyên liệu, lương thực, thực phẩm, tiền bạc, các vật dụng khác. Đáp lại yêu cầu của Nhật và cũng để đầy túi tham của mình, thực dân Pháp dùng nhiều thủ đoạn bóc lột nhân dân ta. Pháp tăng thuế, và thủ đoạn buộc nông dân nhổ lúa để trồng đay, bông, thầu dầu, thuốc phiện nộp cho Nhật, cưỡng bức người sản xuất bán lương thực, thực phẩm với giá rẻ, một phần để tích trữ chuẩn bị chiến tranh, một phần để cung cấp cho Nhật.
    Trong khi nhân dân ta, nhất là nông dân, thiếu ăn thì chúng dùng gạo để nấu rượu cồn thay xăng, đốt thóc thay than chạy máy điện ở miền Nam. Chúng còn cho mở các sòng bạc công khai ở Lạng Sơn, Móng Cái, Hà Giang, Chợ Lớn . vừa để vơ vét tiền của, vừa để làm trụy lạc nhân dân ta.
    Chính sách bóc lột kinh tế, áp bức chính trị của Pháp - Nhật đã gây hậu quả tai hại đến nền kinh tế đất nước, đến mọi mặt của đời sống nhân dân, trực tiếp làm hai triệu đồng bào ta ở miền Bắc chết đói trong mấy tháng đầu năm 1945 và hàng triệu đồng bào khác trong cả nước sống dở, chết dở.
    Công nhân và nông dân là hai giai cấp chịu hậu quả nặng nề nhất của chính sách phát xít. Giai cấp công nhân bị bóc lột nặng nề, đồng lương thực tế giảm sút, giờ làm việc tăng lên (từ 10 đến 12 giờ trong ngày). Họ sống điêu đứng vì hàng hoá trên thị trường khan hiếm, giá sinh hoạt đắt đỏ.
    Ngày càng có nhiều công nhân bị sai thải, thất nghiệp. Giai cấp nông dân cũng bị bóc lột nặng nề. Họ là nạn nhân của chính sách chiếm đoạt ruộng đất, chính sách tô cao thuế nặng.
    Tầng lớp tiểu tư sản chịu tác động không nhỏ, bị ảnh hưởng trực tiếp, hoặc gián tiếp của những chính sách thực dân phản động. Nhiều học sinh, sinh viên thất học,nhiều trí thức,viên chức mất việc làm, đồng lương thực tế giảm sút. Nhiều tiểu thương sa vào cảnh hàng hoá ế ẩm, nhiều tiểu chủ sản xuất ngừng trệ.
    Giai cấp tư sản dân tộc cũng bị chính sách "kinh tế chỉ huy" thời chiến của Pháp và chính sách tăng cường đầu tư của các công ty tư bản Nhật làm cho phá sản, bị thiệt hại do tư bản Pháp- Nhật cạnh tranh, do sức mua của nhân dân giảm sút.
    Bộ phận địa chủ vừa và nhỏ bị thiệt hại do các chính sách cướp đất, tăng thuế, mua ngũ cốc với giá rẻ.
    Như vậy, mọi giai cấp, mọi tầng lớp xã hội Việt Nam,chỉ trừ bọn tay sai đế quốc, địa chủ lớn, tư sản mại bản,đều bị ảnh hưởng của chính sách thực dân phản động và của chiến tranh đế quốc, do đó ít nhiều đều có thái độ chống phát xít Pháp-Nhật, có cảm tình với cách mạng, tham gia vào cuộc đấu tranh chống chính quyền đế quốc và tay sai, giải phóng dân tộc.
    Căn cứ vào tình hình trên, Hội nghị Trung ương lần thứ sáu (tháng 11-1939) của Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định nhiệm vụ trung tâm trước mắt của cách mạng là đánh đổ đế quốc phát xít Nhật-Pháp và bọn tay sai, làm cho Việt Nam hoàn toàn độc lập, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp bách nhất, các nhiệm vụ khác (kể cả nhiệm vụ giành ruộng đất) đều phải nhằm giải quyết nhiệm vụ đó: tạm gác khẩu hiệu "Cách mạng ruộng đất" và thay bằng các khẩu hiệu "Chống địa tô cao", "Chống cho vay nặng lãi", tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ tay sai chia cho dân cày nghèo.
    Hội nghị lần thứ sáu của Đảng chủ trương thành lập Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận dân chủ Đông Dương nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp, các giai cấp, các dân tộc, và các cá nhân yêu nước tiến hành đấu tranh, thực hiện những nhiệm vụ cấp bách của cách mạng.
    Tinh thần đấu tranh cách mạng của quần chúng đã làm bùng nổ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, mở đầu bằng cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, khởi nghĩa Nam Kỳ và binh biến Đô Lương.
    - Khởi nghĩa Bắc Sơn (ngày 27-9-1940)
    Đêm 22-9-1940, quân Nhật tiến đánh Lạng Sơn, quân Pháp thua, bỏ chạy qua châu Bắc Sơn. Thừa cơ, nhân dân Bắc Sơn nổi dậy tước khí giới của quân Pháp để tự võ trang cho mình, giải tán chính quyền địch, thành lập chính quyền cách mạng (ngày 27-9-1940). Nhưng mấy hôm sau, Nhật thoả hiệp để Pháp quay trở lại đàn áp, tập trung dân, bắn giết nghĩa quân, đốt phá nhà cửa, cướp đoạt của cải.
    Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương, nhân dân tiếp tục đấu tranh chống khủng bố, tổ chức những đoàn vũ trang trừng trị bọn tay sai của địch. Nhờ đó, cơ sở khởi nghĩa được duy trì, quân khởi nghĩa lập căn cứ quân sự. Một uỷ ban chỉ huy được thành lập để phụ trách công việc cách mạng. Tài sản của đế quốc và tay sai bị tịch thu chia cho dân nghèo và các gia đình bị hại. Quần chúng gia nhập đội quân cách mạng ngày càng đông. Đội du kích Bắc Sơn được thành lập cùng với căn cứ Bắc Sơn hình thành, đó là đội vũ trang, căn cứ địa cách mạng đầu tiên đánh Pháp, đuổi Nhật trong thời kỳ Việt Minh sau này.
    - Khởi nghĩa Nam Kỳ (ngày 23-11-1940)
    Quân Xiêm (Thái Lan) với sự giúp đỡ của Nhật, lợi dụng cơ hội quân Pháp bại trận ở châu Âu và yếu thế ở Đông Dương, đã tiến hành khiêu khích, xung đột dọc biên giới với Lào và Campuchia. Để chống lại, thực dân Pháp bắt lính người Việt ra mặt trận chết thay cho chúng (tháng ll-1940). Nhân dân, nhất là binh lính người Việt rất bất bình và sôi sục khí thế đấu tranh. Tình thế cấp bách khiến cho đảng bộ Nam Kỳ phải quyết định khởi nghĩa, tuy chưa có sự chuẩn y của Trung ương, lệnh đình chỉ khởi nghĩa của Đảng ngoài Bắc vào chậm. Trước ngày khởi sự, một số cán bộ chỉ huy bị bắt, kế hoạch khởi nghĩa bị lộ, thực dân Pháp tìm cách đối phó. Tuy vậy, cuộc khởi nghĩa vẫn nổ ra theo dự kiến vào đêm 22 rạng sáng ngày 23-11-1940 ở hầu khắp các tỉnh Nam Kỳ triệt hạ nhiều đồn bốt giặc, phá tan nhiều chính quyền địch, thành lập chính quyền nhân dân và toà án cách mạng ở nhiều địa phương. Cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên xuất hiện.
    Thực dân Pháp đã dùng nhiều thủ đoạn dã man đàn áp cuộc khởi nghĩa. Chúng cho máy bay ném bom tàn sát nhân dân ở những vùng có phong trào nổi dậy, dùng dây thép xâu tay nhiều người vào nhau, đem phơi nắng cho đến chết hoặc nhấn chìm xuống biển. Chúng bắt đi đầy hàng nghìn chiến sĩ yêu nước, xử bắn một số chiến sĩ ưu tú của Đảng như: Nguyễn Văn Cừ, Nguyễn Thị Minh Khai .
    Cơ sở Đảng bị tổn thất nặng, một số cán bộ đã bí mật rút vào rừng, chấn chỉnh đội ngũ chờ cơ hội hoạt động trở lại.
    - Binh biến Đô Lương (13-1-1941)
    Phong trào cách mạng của quần chúng đã ảnh hưởng đến tinh thần của binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Tại Nghệ An, binh lính rất bất bình vì bị bắt sang Lào làm bia đỡ đạn cho Pháp chống Thái Lan.
    Ngày 13-1-1941, dưới sự chỉ huy của Đội Cung (Nguyễn Văn Cung), binh lính đồn Chợ Rạng (Thanh Chương-Nghệ An) đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn Đô Lương rồi lên ôtô kéo về Vinh định cùng anh em binh lính ở đây giết giặc chiếm thành. Kế hoạch không thành. Đội Cung bị Pháp bắt và bị xử tử cùng với 10 đồng chí của ông tại Vinh. Nhiều người khác bị kết án khổ sai và đưa đi đày.
    Binh biến Đô Lương là hành động yêu nước của binh lính người Việt Nam trong quân đội Pháp.
    Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Nam Kỳ và binh biến Đô Lương nổ ra vào lúc kẻ thù còn mạnh, lực lượng cách mạng chưa được tổ chức và chuẩn bị kỹ lưỡng nên đều thất bại.
    Tuy vậy, các sự kiện oanh liệt đó đã "gây ảnh hưởng rộng lớn trong toàn quốc", nêu cao tinh thần anh hùng bất khuất của nhân dân ta, giáng đòn chí tử vào thực dân Pháp, cảnh cáo nghiêm khắc phát xít Nhật vừa mới đặt chân vào nước ta. Đó là những tiếng súng báo hiệu của cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đầu đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc Đông Dương.
    Các cuộc khởi nghĩa và binh biến nói trên, đặc biệt là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, đã để lại cho Đảng Cộng sản Đông Dương những bài học bổ ích về khởi nghĩa vũ trang; xây dựng lực lượng vũ trang và chiến tranh du kích, trực tiếp chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám về sau.
    [B]Cuộc tổng khởi nghĩa[/B]
    [B]. Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ tổng khởi nghĩa Từ cuối tháng 4 đầu tháng 5-1945, từng tháng, từng ngày, lịch sử chứng kiến sự diệt vong của chủ nghĩa phát xít, sự thắng lợi của loài người tiến bộ và các lực lượng dân chủ chống phát xít.[/B]
    [B]1. Nhật đầu hàng Đồng minh, thời cơ tổng khởi nghĩa [/B]
    Từ cuối tháng 4 đầu tháng 5-1945, từng tháng, từng ngày, lịch sử chứng kiến sự diệt vong của chủ nghĩa phát xít, sự thắng lợi của loài người tiến bộ và các lực lượng dân chủ chống phát xít.
    Ngày 9-8-1945, sau khi chiến thắng hoàn toàn quân Đức, Hồng quân Liên Xô bắt đầu tiến công quân Nhật. Trong vòng không đầy một tuần lễ, quân đội Liên Xô đánh tan gần một triệu quân Nhật tại Mãn Châu (Trung Quốc), buộc Nhật đầu hàng Liên Xô và Đồng minh không điều kiện. Chiến tranh Thái Bình Dương, Chiến tranh thế giới lần thứ hai chấm dứt.
    Việc gần một triệu quân Quan Đông thiện chiến nhất của Nhật bị tiêu diệt đã tác động mạnh đến tinh thần quân Nhật ở Đông Dương. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim cùng với các hạng tay sai khác của Nhật đều hoang mang tan rã.
    Điều kiện khách quan cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền đã hoàn toàn chín muồi, "thời cơ ngàn năm có một" đã đến, trong lúc điều kiện chủ quan của ta hết sức thuận lợi.
    Ngày 13-8-1945 Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc được thành lập, liền ra "Quân lệnh số 1" hạ lệnh tổng khởi nghĩa.
    Từ ngày 13 đến ngày 15-8-1945, tại Tân Trào diễn ra Hội nghị toàn quốc của Đảng. Hội nghị nhận định: "Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương đã chín muồi . Quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần, hàng ngũ chỉ huy Nhật ở Đông Dương chia rẽ đến cực điểm, bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ. Toàn dân tộc đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa giành chính quyền độc lập. Từ nhận định đó, Hội nghị đi đến quyết định phát động toàn dân nổi dậy khởi nghĩa giành chính quyền trước khi quân Anh, quân Tưởng Giới Thạch vào Đông Dương tước khí giới quân Nhật và thực dân Pháp chưa kịp tập hợp lực lượng, điều quân vào xâm lược nước ta lần nữa. Hội nghị 496 còn quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội, đối ngoại trong thời kỳ đầu sau khi giành được chính quyền.
    Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc thì Đại hội quốc dân do Tổng bộ Việt Minh triệu tập họp ngay ở Tân Trào (Tuyên Quang) trong hai ngày 16 và 17-8-1945. Tham dự Đại hội có hơn 60 đại biểu của các giới, các đảng phái chính trị, các đoàn thể quần chúng, các dân tộc, các tôn giáo trong nước và đại biểu kiều bào ở nước ngoài. Đại hội tán thành hoàn toàn chủ trương tổng khởi nghĩa của Đảng, nhất trí thông qua 10 chính sách của Việt Minh, coi đó là chính sách cơ bản của cách mạng, cử ra ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. Đại hội còn quyết định lấy lá cờ đỏ sao vàng làm Quốc kỳ, lấy bài Tiến quân ca làm Quốc ca.
    Đại hội quốc dân vừa bế mạc, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền:
    Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta . chúng ta không thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh đồng bào hãy dũng cảm tiến lên?.
    [B]2. Tổng khởi nghĩa tháng Tám, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời [/B]
    Hưởng ứng lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng, lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đồng bào cả nước, triệu người như một, nhất tề đứng lên với tinh thần "Dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập".
    Chiều 16-8-1945, theo lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa, một đơn vị quân giải phóng do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào, nơi Đại hội quốc dân đang họp, tiến về thị xã Thái Nguyên, mở đầu cuộc tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền trong cả nước.
    Ở nhiều tỉnh xa, lệnh tổng khởi nghĩa của Trung ương đến chậm, nhưng nhờ thấm nhuần các chỉ thị, nghị quyết của Đảng trước đó, nhất là tinh thần chỉ thị "Nhật-Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta", đồng thời căn cứ vào tình hình thực tế ở địa phương, khi được tin Nhật đầu hàng Đồng minh, lãnh đạo Đảng, Mặt trận dã kịp thời, chủ động phát động quần chúng nổi dậy.
    Từ ngày 14 đến ngày 18-8-1945, Ở hầu hết các tỉnh miền Bắc, quần chúng cách mạng đã nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã và cấp huyện, rồi tiến lên giành chính quyền ở tỉnh.
    Ngày 18-8-1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh,Quảng Nam giành được chính quyền ở tỉnh lỵ sớm nhất trong cả nước.
    Ngày 19-8-1945, cả Hà Nội đỏ rực màu cờ. Hàng chục vạn quần chúng cách mạng ở nội và ngoại thành mang theo gậy dao, súng, mã tấu . tiến về quảng trường Nhà hát thành phố dự cuộc mít tinh do Việt Minh tổ chức. Cuộc mít tinh bắt đầu lúc 11 giờ. Sau loạt súng chào cờ và bài Tiến quân ca vang lên, đại biểu Uỷ ban quân sự cách mạng đọc lời hiệu triệu khởi nghĩa của Việt Minh. Cuộc mít tinh phát triển nhanh chóng chuyển thành cuộc biểu tình tuần hành vũ trang. Quần chúng biểu tình chia thành nhiều đoàn, có các đơn vị tự vệ chiến đấu, tiến về các ngả đường, chiếm các cơ quan của chính quyền bù nhìn: Phủ Khâm sai, Toà Thị chính, Sở cảnh sát, Trại bảo an binh . Trước khí thế sục sôi của quần chúng khởi nghĩa, Nhật dù có hơn một vạn quân cũng không thể làm gì được. Binh lính và cảnh sát ngụy cũng bất lực và cuối cùng ngả theo cách mạng. Chính quyền hoàn toàn về tay nhân dân.
    Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (ngày 19 tháng 8) đã có tiếng vang nhanh trong cả nước, có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ các tỉnh và các thành phố khác, làm tăng thêm cuộc khủng hoảng trong hàng ngũ kẻ thù, tạo điều kiện thuận lợi cho cuộc tổng khởi nghĩa.
    Ở Huế, ngày 23-8-1945, quần chúng các huyện ngoại thành đã giành được chính quyền cùng phối hợp với công nhân, thanh niên, sinh viên, học sinh và các tầng lớp lao động khác trong nội thành, tiến hành cuộc biểu dương lực lượng. Bộ máy chính quyền bù nhìn hoàn toàn tê liệt. Quân đội Nhật nằm im. Quần chúng khởi nghĩa lần lượt chiếm các công sở của địch mà không có sự kháng cự nào đáng kể.
    Được tin cách mạng thắng lợi ở Hà Nội, Đảng bộ miền Nam và Sài Gòn quyết định phát động quần chúng khởi nghĩa giành chính quyền ở Sài Gòn và các tỉnh. Đêm 24-8-1945, từng đoàn quân khởi nghĩa của công nhân, nông dân,thanh niên, sinh viên, học sinh và các tầng lớp lao động khác, trong tay gậy tầm vông vót nhọn và giáo mác, từ các tỉnh xung quanh rầm rập kéo về Sài Gòn. Sáng 25-8-1945, hơn một triệu người biểu tình tuần hành thị uy. Quân khởi nghĩa lần lượt chiếm các công sở quan trọng của địch. Quân đội Nhật "án binh bất động". Cuộc khởi nghĩa giành được thắng nhanh chóng.
    Thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Sài Gòn có ý nghĩa quyết định đến cuộc khởi nghĩa của các tỉnh còn lại ở miền Nam.
    Trừ mất thị xã do Tưởng Giới Thạch và tay sai chiếm đóng từ trước (Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên), cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi trên cả nước trong vòng nửa tháng, từ ngày 14 đến ngày 28-8-1945.
    Ngày 25-8-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Uỷ ban dân tộc giải phóng từ Tân Trào về đến Hà Nội. Theo đề nghị của Người, Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Đại hội quốc dân Tân Trào cử ra được cải tổ thành chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà.Chính phủ lâm thời thể hiện chính sách đại đoàn kết của Đảng, đoàn kết rộng rãi mọi tầng lớp nhân dân, các đảng phái yêu nước, các nhân sĩ tiến bộ.
    Ngày 28-8-1945, một phái đoàn của Chính phủ lâm thời từ Hà Nội vào Huế dự lễ thoái vị của vua Bảo Đại. Chiều 30 tháng 8,ở Ngọ Môn, dưới rừng cờ đỏ sao vàng, diễn ra cuộc mít tinh của hàng vạn nhân dân cố đô Huế, chứng kiến Bảo Đại - ông vua cuối cùng của chế độ phong kiến Việt Nam, đọc lời thoái vị và trao ấn, kiếm cho cách mạng. Đại diện Chính phủ lâm thời Việt Nam dân chủ cộng hoà tuyên bố xoá bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam.
    Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh lớn của hàng chục vạn nhân dân đủ các tầng lớp ở thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố với toàn thể quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...