Tài liệu Cuộc đấu tranh của hai phe chủ chiến - chủ hòa và những tác động đối với cuộc đấu tranh chống pháp x

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CUỘC ĐẤU TRANH CỦA HAI PHE CHỦ CHIẾN - CHỦ HÒA VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI CUỘC ĐẤU TRANH CHỐNG PHÁP XÂM LƯỢC (1858 – 1888)



    I. MỞ ĐẦU

    1. Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, nhà Nguyễn là triều đại ở vị trí rất đặc biệt, đó là điểm giao thời từ Việt Nam độc lập sang nước Việt Nam nô lệ. Nhà Nguyễn tồn tại 143 năm (1802 – 1945) trong thời kì đất nước có nhiều biến động, là nhà nước phong kiến cuối cùng trong lịch sử Việt Nam. Hiếm có triều đại nào thu hút nhiều sự chú ý của các nhà nghiên cứu lịch sử như triều Nguyễn. Một nguyên nhân quan trọng vì đây là thời kì gần với lịch sử hiện đại Việt Nam, còn lưu giữ được nhiều những tư liệu thành văn nhưng phần khác là ở triều Nguyễn luôn tồn tại hai mảng sáng tối đan xen với nhau, dễ gây nên sự tranh luận của các nhà khoa học, trong đó nội dung được đề cập nhiều là cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược (1858 – 1885) và nguyên nhân để mất nước ta vào tay thực dân Pháp. Đa số các học giả cho rằng, nguyên nhân quan trọng để mất độc lập, chủ quyền là do nhà Nguyễn thiếu quyết tâm đánh Pháp đến cùng, sai lầm trong đường lối chỉ đạo chiến lược, từ bỏ vai trò lãnh đạo của người đại diện cho lợi ích dân tộc nên biến việc mất nước từ chỗ không tất yếu thành tất yếu. Nhưng cũng có ý kiến đánh giá nguyên nhân mất nước của dân tộc ta hồi nửa cuối thế kỉ XIX là do tình trạng lạc hậu và yếu kém so với phương Tây gây nên, do đó để mất nước vào tay người Pháp là điều khó tránh khỏi.

    Chia sẻ quan điểm của các nhà nghiên cứu lịch sử trên đây, chúng tôi nhận thấy cần đi sâu phân tích những mâu thuẫn, xung đột trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn nhằm làm sáng tỏ những mâu thuẫn về tư tưởng trong lực lượng quan lại Việt Nam cuối thế kỉ XIX. Đó là cuộc đấu tranh nhằm xác định đường lối chiến lược kháng Pháp giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa. Qua đây, chúng tôi mong muốn góp phần lí giải rõ thêm nguyên nhân để nước ta rơi vào tay thực dân Pháp từ yếu tố chủ quan ở bên trong cơ quan chỉ huy cao nhất cuộc đấu tranh chống xâm lăng. Điều này không chỉ giúp cho sinh viên năm thứ hai khoa Việt Nam học có thể hiểu rõ hơn về nhà Nguyễn và lịch sử Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX mà còn có được cách nhìn nhận và đánh giá sự kiện lịch sử, biến cố lịch sử và vấn đề lịch sử đưới góc nhìn đa diện, nhiều chiều.

    Nghiên cứu những xung đột giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong nội bộ nhà Nguyễn thời kì đấu tranh chống Pháp xâm lược (1858 - 1885) không những rất cần thiết để hiểu về quá khứ mà còn có ý nghĩa quan trọng trong thời kỳ hiện nay, nhất là ở thời điểm chúng ta đang thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tiến vào hội nhập cùng khu vực và thế giới. Cuộc đấu tranh nội bộ đó đã để lại bài học sâu sắc về vấn đề xây dựng sự đoàn kết nhất trí trong chính quyền nhà nước, là nhân tố quan trọng của thành công cũng như thất bại. Bài học về đoàn kết trong lực lượng lãnh đạo, đại đoàn kết toàn thể nhân dân là bài học lớn trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước của dân tộc ta và nó chính là thứ di sản quý giá của dân tộc cần được chú trọng và tiếp tục vận dụng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

    2. Cho tới nay, cuộc đấu tranh giữa hai phe chủ chiến và chủ hòa trong cuộc đấu tranh chống Pháp xâm lược ở nửa cuối thế kỉ XIX đã thu hút được nhiều sự chú ý, quan tâm của các nhà khoa học. Sự phân hoá, chia rẽ trong nội bộ triều Nguyễn thành hai phe chủ chiến và chủ hoà chính là hệ quả của cuộc đụng độ giữa Việt Nam và Pháp và nó cũng chứng tỏ sự bất ổn, sự yếu kém của triều Nguyễn trong cuộc đấu tranh chống Pháp.

    Trong cuốn Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, NXB Giáo dục – 2000, các tác giả Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ đã khẳng định: “ phe chủ chiến muốn dựa vào phong kiến Trung Quốc để đánh đuổi Pháp. Tiêu biểu cho phái này có Tô Linh, Phan Hữu Nghị, Hồ Sĩ Tuấn, phe này chủ trương “phải giữ và đánh thủ để công và công để thủ, rồi quét sạch địch””. Phái chủ hoà thì lập luận khác khi họ khăng khăng bảo vệ quan điểm “chiến không bằng hoà, chống giặc duy thủ là hơn” [5; 20]. Lập luận của phe chủ hoà bị phái chủ chiến và nhân dân lên án kịch liệt bởi tư tưởng hoà lúc này là đồng nghĩa với đầu hàng giặc. Lập luận phái chủ chiến được nhân dân ủng hộ và hưởng ứng bởi tư tưởng đó là có trách nhiệm với quốc gia, dân tộc trong lúc nguy nan. Đây là nhận định đúng đắn và có cơ sở khoa học giúp chúng tôi định hướng trong quá trình đặt vấn đề và giải quyết vấn đề.

    Nhà sử học Dương Kinh Quốc trong cuốn Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858 – 1918), NXB Giáo dục – 2006, thì có ý kiến khác. Ông cho rằng khi thực dân Pháp bắt đầu xâm lược Việt Nam thì cũng là lúc trong triều đình nhà Nguyễn có sự phân hóa sâu sắc khi có đến năm loại ý kiến khác nhau về chiến lược chống ngoại xâm.

    - Lấy thế thủ làm chính vì có giữ vững thì sau mới có thể bàn đến chuyện hoà hay chiến được. Đại biểu ý kiến này là Viện Cơ mật gồm Trương Đăng Quế, Phan Thanh Giản, Lưu Lượng.

    - kế chống giữ lâu dài làm chính vì thuyền tàu, súng đạn là cái sở trường của giặc, giặc muốn đánh mau, thắng mau, ta không nên chống lại với sở trường của chúng mà phải kiên trì chống và giữ để đợi khi chúng mệt mỏi, cần giảng hoà, lúc đó ta sẽ tuỳ cơ ứng phó. ý kiến này của các đại thần như Trương Quốc Dụng, Trần Văn Chung, Lâm Duy Hiệp, Chu Phúc Minh, Phan Huy Vịnh, Pham Chi Hương, Nguyễn Xuân Huân, Nguyễn Hữu Thành, Nguyễn Luận, Lê Đức, Vũ Xuân Sán.

    - Quyết tâm giữ đất, tấn công giặc, quyết không nghị hoà với giặc. Cụ thể là ở Quảng Nam, địch đã tiến sâu vào nội địa bằng đường sông ta phải dụ chúng lên bộ để tiêu diệt chúng. ở Gia Định ta nên hợp quân các tỉnh lại để nhất loạt tiến công, đốt phá, tiêu diệt địch. ý kiến này của các quan lại cấp Nha như: Tô Trân, Phạm Hữu Nghị, Trần Văn Vy, Lê Hiếu Hữu, Nguyễn Đăng Điều, Hồ Sĩ Tuấn.

    - Hoà có mức độ: Nếu giặc chỉ yêu cầu tự do truyền đạo và thông thương mua bán thì nên hoà, nếu đó chỉ là những yêu sách giả dối thì ta phải cố giữ. Đây là ý kiến của Vũ Đức Nhu.

    - Nên hoà ngay. Ý kiến của Lê Trí Tín, Đoàn Thọ, Tôn Thất Thường, Tôn Thất Dao, Nguyễn Hào [7; 16].

    Tựu chung năm ý kiến là có hai luồng tư tưởng rõ ràng: chiến hay hòa. Có thể nói, đây chính là một trong những nguồn tư liệu quý cho thấy sự dao động, thiếu nhất quán ngay từ đầu trong đường lối chống Pháp của lực lượng vua quan nhà Nguyễn - những người đại diện cao nhất cho lợi ích của toàn dân tộc. Từ đây, chúng tôi có thêm những căn cứ quan trọng để có thể đánh giá thái độ và trách nhiệm của nhà nước phong kiến Nguyễn trong việc để nước ta rơi vào tay Pháp.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...