Luận Văn cuộc cách mạng mang tên triết học

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    cuộc cách mạng mang tên triết học



    Lời mở đầu

    Triết học ra đời và phát triển cho đến nay đã có lịch sử gần 3000 năm. Sự phát triển những tư tưởng triết học của nhân loại là một quá trình không đơn giản. Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, và gắn với nó là cuộc đấu tranh giữa các phương pháp nhận thức hiện thực – phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình - tuy là cái trục xuyên suốt lịch sử triết học, làm nên cái “logic nội tại khách quan” của sự phát triển, song lịch sử diễn biến của nó lại hết sức phức tạp.
    Triết học Mác là một hệ thống triết học khoa học và cách mạng, chính vì vậy nó đã trở thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của giai cấp công nhân và nhân loại tiến bộ trong thời đại mới. Triết học Mác đã kế thừa những tinh hoa, từ đó đưa ra những nguyên lý khoa học giúp con người nhân thức đúng và cải tạo thế giới.
    Sự ra đời triết học Mác tạo nên sự biến đổi có ý nghĩa cách mạng trong lịch sử phát triển triết học của nhân loại. C.Mác và Ph.Ăngghen đã kế thừa một cách có phê phán những thành tựu tư duy nhân loại, sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật triết học triệt để, không điều hoà với chủ nghĩa duy tâm và phép siêu hình. Để xây triết học duy vật biện chứng, Mác đã phải cải cả chủ nghĩa duy vật cũ và cả phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Đó là một cuộc cách mạng thật sự trong học thuyết về xã hội, một trong những yếu tố chủ yếu của bước ngoặt cách mạng mà Mác và Ăngghen đã thực hiện trong triết học. Vì vậy em nghiên cứu vấn đề “Phân tích thực chất của cuộc cách mạng trên lĩnh vực triết học do Mác - Ăngghen thực hiện – ý nghĩa của vấn đề đó” cho bài tiểu luận của mình.




    Nội dung
    1. Vấn đề cơ bản của triết học
    Triết học là hệ thống những quan điểm chung về thế giới, nó xuất hiện vào thời kỳ phát sinh và phát triển của xã hội chiếm hữu nô lệ ở thời cổ đại, vào khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước công nguyên với những thành tựu rực rỡ trong các nền triết học cổ đại ở Trung Quốc, ấn Độ và Hy Lạp.
    Trong gần 3000 năm tồn tại và phát triển, triết học có nhiều trường phái và hệ thống khác nhau. Các hệ thống và trường phái đó phản ánh trình độ phát triển về kinh tế – xã hội, chính trị và trình độ phát triển của các tri thức khoa học tự nhiên của các nước. Lẽ đương nhiên, sự phản ánh đó tuỳ thuộc vào lập trường của các giai cấp nhất định.
    Khi nghiên cứu các hệ thống, các trường phái triết học, chủ nghĩa Mác cho rằng, vấn đế quan trọng hàng đầu, “vấn đề cơ bản lớn” hay “vấn đề tối cao” của triết học là vấn đề quan hệ giữa tư duy và tồn tại, giữa tinh thần và thế giới tự nhiên. Vấn đề cơ bản của triết học có hai mặt:
    Thứ nhất, giữa vật chất và ý thức, cái nào có trước, cái nào có sau và cái nào quyết định?
    Thứ hai, ý thức của chúng ta có thể phản ánh trung thực thế giới khách quan không? Hay nói một cách khác, con người có khả năng nhận thức thế giới hay không?
    Vấn đề quan hệ giữa tồn tại và tư duy hay giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản trong tất cả vấn đề mà triết học tập trung giải quyết. Bởi vì, một là, đó là vấn đề triết học rộng nhất, chung nhất; hai là, nếu không giải quyết được vấn đề này thì không thể tiếp tục giải quyết các vấn đề khác, những vấn đề ít chung hơn; ba là, giải quyết vấn đề này như thế nào sẽ quyết định tính chất của thế giới quan của các nhà triết học. Và thế giới quan ấy là cơ sở tạo ra phương hướng để xem xét và giải quyết tất cả những vấn đề còn lại. Các học thuyết triết học được chia thành hai trào lưu cơ bản: duy vật hay duy tâm, điều đó tuỳ thuộc vào việc giải quyết vấn đề cơ bản này.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...