Luận Văn Công tác xã hội với trẻ em trong các gia đình sau ly hôn

Thảo luận trong 'Xã Hội Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Hôn nhân gia đình và trẻ em gắn bó với nhau, luôn luôn đóng một vai trò quan trọng và có ý nghĩa chiến lược trong quá trình phát triển của các quốc gia. Khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời, báo hiệu thêm một con người trên trái đất, thêm một vị trí trên bản đồ xã hội, báo hiệu một quan hệ thiêng liêng nhất trong một giáo dục: quan hệ “mẫu tử”. Đó cũng là kết quả ban đầu của hôn nhân, hình thành một gia đình đầy đủ. Lúc này, “chồng - vợ và con”, là những thành viên cốt lõi của một gia đình hai thế hệ - nói như P.H. Chambart de Lauwe rất đúng rằng: Chồng - vợ và con - đó là ba người, ba diễn viên, phân tích trong đó cuộc sống riêng có cả cuộc sống của toàn xã hội(1).

    Đứa trẻ sinh ra, lớn lên và trưởng thành từ trong gia đình, hưởng thụ, kế thừa và sau đó tham gia vào quá trình sáng tạo không ngừng. Quá trình trưởng thành này cũng chính là quá trình xã hội hoá cá nhân con người, quá trình hình thành nhân cách, tạo lập nhiều mối quan hệ tốt đẹp, ổn định, lâu bền theo các loại hình gia đình truyền thống hoặc gia đình hiện đại trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau của sự phát triển xã hội. Quá trình này cũng tạo lập nên nhiều mô hình, nhiều khuôn mẫu gia đình, từ mô hình hôn nhân đến mô hình nuôi dạy con cái. Nhiều câu hỏi được đặt ra trong các cuộc sống gia đình, từ gia đình nghèo khó đến gia đình giàu sang, từ gia đình viên chức đến gia đình buôn bán, từ gia đình đầy đủ đến gia đình có khuyết tật. Gia đình đã trở thành một biểu tượng văn hoá, chính trị trong nhiều quốc gia. Năm 1992, gia đình chính thức được công nhận như một trong các thang giá trị của xã hội Mỹ, trong đó vấn đề “thiên chức” của người mẹ đã được đề cao. Gia đình gắn bó với xã hội thông qua nhiều mối quan hệ, hỗ trợ cho cuộc sống hàng ngày của xã hội, từ việc tái sản sinh ra giống nòi đến việc nuôi dưỡng, duy trì lực lượng lao động và các công việc cơ bản khác mà xã hội và cộng đồng giao phó. Vì vậy, nếu nảy sinh những bối cảnh khủng hoảng, ly hôn, khuôn mẫu gia đình ổn định bị suy tàn sẽ tạo nên biết bao những vấn đề phức tạp trong cuộc sống của mỗi con người.

    Ngày nay, cùng với sự đa dạng về chính trị, kinh tế, văn hoá trên thế giới, nhiều quan niệm khác nhau về hôn nhân, gia đình và nuôi dạy con cái cũng đã xuất hiện. Tính bền vững của gia đình ngày càng giảm, ly hôn ngày càng tăng, tạo nên nhiều cái giá phải trả về mặt xã hội, về cá nhân và cộng đồng. Ly hôn không phải là tạo nên sự tự do đơn giản của hai vợ chồng mà là tạo nên sự nghèo khổ vật chất và tinh thần, và con cái lang thang không nơi nương tựa, làm tan vỡ nhiều mối quan hệ xã hội. Nhiều nước đã ban hành đạo luật về ly hôn. Bất cứ nước nào, đạo luật ly hôn thông thoáng hơn cũng sẽ làm cho tỷ lệ ly hôn cao.

    Trong những năm gần đây, ở nước ta hàng năm các toà án phải xử lý trên 20.000 vụ ly hôn. Trong tổng số 35.000 vụ đã thụ lý hồ sơ, gần đây có đến 21.013 vụ do mâu thuẫn gia đình, người vợ bị đánh đập, ngược đãi (An ninh Thủ đô số 379, 28/11/1999).

    Theo thống kê của Toà án Hà Nội từ 1978 đến 1994 có 23.738 vụ kiện ly hôn(2); còn ở thành phố Hồ Chí Minh từ 1985 đến 1990 có 21.814 vụ ly hôn. Theo Toà án Nhân dân tối cao, từ 1996 đến 2001, hàng năm có tới hàng nghìn vụ ly hôn trong cả nước và những vụ ly hôn này đã tạo nên biết bao khó khăn cho các gia đình, cộng đồng và xã hội. Mọi người đều khẳng định rằng, ly hôn gây tác hại trước hết cho con cái, làm căng thẳng các mối quan hệ bố mẹ - con cái, nó định hình lại các mối quan hệ họ hàng, gia tộc, xóm làng.

    Một số nghiên cứu đã được công bố, cho rằng ly hôn đã làm thất vọng mọi người, đã làm xấu đi thực sự các điều kiện sinh hoạt kinh tế và văn hoá và đời sống tinh thần, làm tan vỡ nhiều mối quan hệ truyền thống tốt đẹp. Chính R. Arons đã cho rằng “ly hôn là cuộc khủng hoảng của sự biến đổi gia đình gây ra những thay đổi trong hệ thống gia đình”(3).

    Trong hoàn cảnh của xã hội Việt Nam, cùng với sự tăng lên của các gia đình ly hôn, nhất là ở các đô thị, số lượng trẻ em trong các gia đình ly hôn cũng tăng lên và rơi vào hoàn cảnh cực kỳ khó khăn. Trong số tỷ lệ 65%-70% gia đình ly hôn, có tới hàng nghìn trẻ em chưa đến tuổi trưởng thành đã sống trong hoàn cảnh không có cha, hoặc không có mẹ, hoặc không có cả cha lẫn mẹ, phải sống với ông, bà, chú, bác nội ngoại, dì ghẻ hoặc bố dượng. Nhiều em rơi vào hoàn cảnh lang thang đường phố để kiếm sống, lao động sớm, hoặc rơi vào tình trạng nghiện hút, bị lạm dụng tình dục, mất mát những quan hệ thiêng liêng như mẹ con, quan hệ huyết thống trong một gia đình truyền thống. Vì vậy, ngày nay, hơn bao giờ hết, mặc dù trước mắt chúng ta, những phát minh mới về khoa học và công nghệ đã mở rộng tầm hiểu biết và kỹ năng của chúng ta, đã tạo nên những xã hội tri thức, nhưng xã hội cũng dường như ngày một phức tạp thêm. Với những chiếc đài và vô tuyến nhỏ xíu cung cấp thông tin suốt 24 giờ hàng ngày, thu nhỏ thế giới thành một cộng đồng nhỏ, Camera tự động, vi mạch điện tử máy tính, Internet đang hàng ngày biến đổi to lớn về tri thức, về giáo dục và giải trí. Nhưng cũng trước mắt chúng ta, trên toàn cầu, không có nơi nào chưa bị tấn công, nhiều nơi đã bị khủng bố gây tang thương, vũ khí hạt nhân sẵn sàng nổ khi có tín hiệu. Hàng ngàn, hàng vạn gia đình tan vỡ. Các bà mẹ độc thân nuôi con trong những ngôi nhà không có ông bố bên cạnh để cùng chăm sóc giáo dục. Cảnh bạo lực trên truyền hình đang gia tăng, nhất là ở Mỹ. Trung bình một đứa trẻ xem truyền hình 4 tiếng một ngày thì khi 16 tuổi nó đã xem trên 200.000 cảnh bạo lực, trong đó có 50.000 là cảnh giết người. Ngày càng có nhiều vụ tự tử của trẻ vị thành niên.

    Vì vậy “Trẻ em hôm nay, Thế giới ngày mai” đang trở thành chủ đề có ý nghĩa chiến lược trên toàn cầu. Công ước về quyền trẻ em đã được ghi nhận trên toàn thế giới. Năm 1924, tuyên bố Giơnevơ về quyền trẻ em đã ghi rõ: tất cả đàn ông và phụ nữ của mọi dân tộc có trách nhiệm tạo cho trẻ em điều tốt đẹp nhất, tuyên bố và chấp nhận đó là nhiệm vụ của mình, vượt lên trên mọi sự quan tâm về chủng tộc, quốc tịch và nòi giống; phải tạo cho trẻ em những phương tiện tiên quyết để phát triển một cách bình thường cả thể chất và tinh thần.

    Đến năm 1959, tuyên bố của Liên Hiệp Quốc về Quyền trẻ em đã quy định: “Loài người có trách nhiệm trao cho trẻ điều tốt đẹp nhất”, “vì sự phát triển đầy đủ và đồng bộ về nhân cách, trẻ cần có sự yêu thương và hiểu biết. ở bất cứ đâu có thể, trẻ sẽ lớn lên trong sự chăm sóc và với trách nhiệm của cha mẹ, và trong bất cứ trường hợp nào phải được chăm sóc trong bầu không khí yêu thương và an toàn về mặt vật chất và tinh thần: trẻ trong thời kỳ được chăm sóc sẽ không được tách khỏi mẹ của trẻ (nguyên tắc 1, 6 - Tuyên bố Liên hợp quốc về Quyền trẻ em 1959).

    Người mẹ và người con trong gia đình ngày càng được xã hội và luật pháp quan tâm. Đứa trẻ không mẹ, không gia đình sẽ báo hiệu biết bao sự cố nảy sinh trong cuộc sống xã hội? Chính vì vậy “để phát triển đầy đủ và hài hoà nhân cách của mình, trẻ em cần được trưởng thành trong môi trường gia đình trong bầu không khí hạnh phúc,yêu thương và thông cảm”(4).

    Việt Nam, kế tục truyền thống dân tộc “Con hơn cha là nhà có phúc”, Đảng và nhà nước Việt Nam, ngay từ khi mới giành được độc lập, đã khẳng định “Thiếu niên, nhi đồng là người chủ tương lai của nước nhà” và “dân tộc ta, mọi người, mọi ngành phải có quyết tâm chăm sóc và giáo dục các cháu bé cho tốt”, “Trước hết, các gia đình (tức là ông, bà, cha mẹ, anh chị) phải làm thật tốt công việc ấy”(5). Năm 1960 đã có phong trào “Toàn dân chăm sóc, giáo dục, thiếu niên, nhi đồng” và từ 1979 bắt đầu thực hiện “Pháp lệnh bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em”. Việt Nam trở thành quốc gia đầu tiên ở châu á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước quốc tế về Quyền trẻ em (1990). Trong chương trình hành động nhằm thực hiện tuyên bố Thế giới về sự sống còn, bảo vệ và phát triển của trẻ em vào những năm 90, đã nêu rõ “Gia đình có trách nhiệm hàng đầu đối với việc nuôi dưỡng và bảo vệ trẻ em từ lúc tuổi thơ cho tới lúc trưởng thành”(6) “Phụ nữ với những chức năng khác nhau của họ đóng một vai trò chủ yếu đối với hạnh phúc của trẻ em”(7).

    Rõ ràng là, gia đình và trẻ em đã không chỉ được in đậm nét trên các văn bản pháp quy trong nước và quốc tế, và là vấn đề được toàn xã hội quan tâm, mà còn trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, nhiều nhà khoa học. Gia đình và trẻ em đã trở thành chủ đề trung tâm trong các nghiên cứu của xã hội học, tâm lý học, giáo dục học, nhân chủng học. Đặc biệt, gia đình còn là “trường hợp” trong công tác xã hội. Các nhà công tác xã hội thế giới đã khẳng định: “mặc dù gia đình hiện đại đang thay đổi và nhiều mô hình mới về đời sống gia đình và hôn nhân xuất hiện, gia đình vẫn là hình thức cơ bản nhất của tổ chức trong xã hội và là một yếu tố trọng tâm của công tác xã hội”(8). Những người làm công tác xã hội luôn luôn tìm hiểu các nguyên tắc làm cơ sở nền tảng cho sự tương tác gia đình, với tư cách là một đơn vị cơ sở, nâng cao chức năng xã hội để giải quyết các vấn đề xã hội xuất hiện trong các gia đình không cân bằng hoặc có sự khủng hoảng làm cho gia đình bị rạn nứt, tan vỡ.

    Gia đình và trẻ em là đối tượng thường trực của Công tác xã hội. Công tác xã hội nhấn mạnh tầm quan trọng của gia đình trong việc uốn nắn những lệch chuẩn và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi của trẻ. Gia đình là cơ sở để khôi phục những mất mát các chức năng xã hội của trẻ, nhất là trẻ trong các gia đình ly hôn.

    Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu về gia đình và trẻ em trong hoàn cảnh khó khăn. Một số nghiên cứu về ảnh hưởng của gia đình ly hôn đến trẻ em đã được công bố trên thế giới, mặc dù còn nhiều quan điểm và ý kiến khác nhau.ở Việt Nam, những nghiên cứu trong vấn đề này chưa được chú ý. Đồng thời vận dụng các phương pháp và kỹ năng của công tác xã hội trong lĩnh vực này còn bỏ ngỏ. Vì vậy, dựa trên thực tiễn xã hội, đề tài “Công tác xã hội với trẻ em trong các gia đình sau ly hôn” sẽ góp phần nhỏ bé trong việc mô tả thực trạng cuộc sống của trẻ em trong các gia đình rơi vào hoàn cảnh ly hôn và vai trò của công tác xã hội trong lĩnh vực này.



    Mục lục

    Trang

    Phần I: Mở đầu 1

    I. Tính cấp thiết của đề tài 1

    II. ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn của đề tài 6

    II.1. ý nghĩa khoa học 6

    II.2. ý nghĩa thực tiễn 6

    III. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6

    III.1. Mục đích nghiên cứu

    III.2. Nhiệm vụ của chuyên đề 6

    IV. Đối tượng nghiên cứu, khách thể, phạm vi nghiên cứu và trị liệu 7

    IV.1. Đối tượng nghiên cứu 7

    IV.2. Khách thể nghiên cứu 7

    IV.3. Phạm vi nghiên cứu 7

    V. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 7

    V.1. Cơ sở phương pháp luận 7

    V.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể 8

    VI. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết 11

    VI.1. Giả thuyết nghiên cứu 11

    VI.2. Khung lý thuyết 11

    Phần II: Nội dung nghiên cứu 12

    Chương I: Cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài 12

    I.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu và trị liệu 12

    I.2. Một số lý thuyết và khái niệm làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài 14

    I.2.1. Lý thuyết cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài 14

    I.2.2. Khái niệm - một trong những công cụ để nghiên cứu đề tài 24

    I.2.3. Một số quan điểm của Đảng và nhà nước về gia đình,

    hôn nhân, bảo vệ và chăm sóc, giáo dục trẻ em 28

    Chương II: Công tác xã hội với trẻ em trong các gia đình sau ly hôn 31

    II.1. Đặc điểm kinh tế văn hoá xã hội từ khi đổi mới đến nay 31

    II.2. Đặc điểm tình hình ly hôn trong những năm gần đây

    - vai trò của công tác xã hội 32

    II.2.1. Ly hôn ngày càng tăng 32

    II.2.2. Vì sao hiện tượng ly hôn tăng nhanh 35

    II.3. Thực trạng của trẻ em trong các gia đình sau ly hôn 41

    II.3.1. Trẻ em trong các gia đình sau ly hôn ngày càng tăng 42

    II.3.2. Một số biểu hiện của đời sống các em trong

    các gia đình sau ly hôn 45

    II.3.3. Cộng đồng và tổ chức xã hội đối với các em

    trong các gia đình sau ly hôn 73

    Phần III: Kết luận, khuyến nghị và giải pháp 80

    III.1. Kết luận 80

    III.1.1. Sự tồn tại và phát triển gia đình tuỳ thuộc vào nghiên cứu

    điều kiện kinh tế xã hội, những quá trình lịch sử nhất định 81

    III.1.2. Ly hôn tăng lên nhanh 82

    III.1.3. Trẻ em trong các gia đình này cũng tăng lên và trở thành

    vấn đề nhức nhối của cộng đồng và xã hội 82

    III.2. Sự vận dụng một số chức năng và phương pháp công tác xã hội

    cho phù hợp 83

    III.2.1. Trẻ em trong các gia đình sau ly hôn 83

    III.2.2. Phương pháp công tác xã hội với trường học 83

    III.2.3. Nhân viên công tác xã hội thực hiện 83
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...