Luận Văn Công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư trong cho vay trung và dài hạn tại Chi nhánh NHNo & PTNT t

Thảo luận trong 'Tài Chính Thuế' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 14/8/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI NÓI ĐẦU
    Từ khi Ngân hàng ra đời và phát triển nở rộ cho đến nay, thuật ngữ ―Thẩm định dự án
    đầu tư‖ dường như đã trở nên quen thuộc với chúng ta, những người thiên về nghiên cứu
    và công tác trong lĩnh vực Tài chính – Ngân hàng. Mặc dù không quá mới mẻ, nhưng thực
    tế vẫn còn nhiều khúc mắc xung quanh vấn đề này, và khi nhắc đến nó, điều đầu tiên mà ai
    cũng nghĩ ngay đến đó là việc thẩm định tài chính dự án đầu tư. Vì sao vậy?
    Thẩm định tài chính dự án đầu tư, là một khâu quan trọng trong thẩm định dự án đầu
    tư nói chung. Tài chính dự án cho ta thấy khả năng nhìn nhận của chủ dự án trong việc xét
    đoán khía cạnh tài chính trong tương lai, mặt khác dự án có khả thi và chủ dự án có khả
    năng trả nợ hay không là một trong những yếu tố hàng đầu giúp ngân hàng đưa ra quyết
    định có nên cho vay vốn đối với dự án đó? Nói thì dễ, nhưng khi bắt tay vào công tác thẩm
    định thì người ta mới thấy rằng có quá nhiều vấn đề bất cập, đó cũng chính là một trong
    những lý do tại sao có nhiều ngân hàng phạm phải những sai lầm tưởng chừng nhỏ bé,
    nhưng hoá ra lại trở thành mối rủi ro lớn, tiềm ẩn về sau cho chính các ngân hàng đó. Tuyệt
    nhiên không có bất cứ điều gì là hoàn hảo hay tuyệt đối, nhưng ít nhất chúng ta cũng có thể
    hạn chế được phần nào những rủi ro ấy, bằng cách nhìn nhận thật thẳng thắn vào vấn đề,
    mổ xẻ để thấy được đâu là nhược điểm của mình, từ đó có biện pháp khắc phục đúng đắn.
    Với tầm quan trọng của công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư như đã nói trên, cùng với
    sự mong muốn tìm hiểu thật thấu đáo hơn về vấn đề này, vì vậy em chọn nội dung để làm
    đề tài cho bài Khoá luận tốt nghiệp của mình là: ―Công tác thẩm định tài chính dự án
    đầu tư trong cho vay trung và dài hạn tại Chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Quảng
    Bình. Thực trạng và giải pháp‖.
    Cấu trúc bài viết ngoài phần mở đầu và kết thúc như thường lệ sẽ bao gồm 3 chương:
    Chương I: Cơ sở lý luận chung về Ngân hàng thương mại và công tác thẩm định tài
    chính dự án đầu tư trong cho vay trung và dài hạn tại Ngân hàng thương mại.
    ChươngII: Thực trạng công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư tại Chi nhánh
    NHNo & PTNT tỉnh Quảng Bình trong ba năm 2009-2011.
    Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định tài chính dự án đầu tư
    tại Chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Quảng Bình.
    Với khoảng thời gian thực tập không dài, cùng với sự hiểu biết còn hạn hẹp của bản
    thân, nên bài viết chắc chắn sẽ có nhiều thiếu sót, vì vậy những ý kiến và phản hồi của các
    thầy (cô) giáo cùng các bạn sinh viên sẽ là sự đóng góp quý giá giúp em hoàn thiện bài làm
    của mình. Qua đây, em xin gửi lời cám ơn chân thành nhất đến tất cả các anh (chị) công tácKhoá luận tốt nghiệp SVTH: Phạm Thị Kim Uy
    - 2 -
    tại phòng Tín dụng _ chi nhánh NHNo & PTNT tỉnh Quảng Bình đã giúp đỡ em rất nhiều
    trong quá trình thực tập. Đặc biệt, em xin gửi lời cám ơn sâu sắc nhất đến Giảng viên
    hướng dẫn đã tận tình chỉ bảo để em có thể hoàn thành bài làm của mình một cách tốt nhất.
    Đà Nẵng, tháng 4năm 2012
    Sinh viên thực hiện
    Phạm Thị Kim Uy.Khoá luận tốt nghiệp SVTH: Phạm Thị Kim Uy
    - 3 -
    CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG
    MẠI VÀ CÔNG TÁC THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN ĐẦU TƯ TRONG CHO
    VAY TRUNG VÀ DÀI HẠN TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI.
    1.1 Tổng quan về NHTM:
    1.1.1 Khái niệm về NHTM:
    Hiện nay ở mỗi quốc gia, có nhiều khái niệm khác nhau về NHTM:
    - Theo quan niệm các Nhà kinh tế học hiện đại: NHTM là một loại hình doanh nghiệp đặc
    biệt, hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ - tín dụng.
    - Theo quan niệm các Nhà kinh tế Hoa Kỳ: NHTM là công ty kinh doanh chuyên cung cấp
    dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
    - Tại Việt Nam, theo quy định của Luật Các tổ chức Tín dụng số 47/2010/QH12 năm 2010,
    có nêu rõ: ―Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động
    ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi
    nhuận‖. Trong đó, các hoạt động ngân hàng được ghi rõ trong Mục 2 của Luật này.
    Mặc dù có nhiều quan điểm, khái niệm khác nhau như vậy song chung quy lại có thể hiểu
    NHTM theo một cách tổng quát: NHTM là một loại hình tổ chức tín dụng, hoạt động thường
    xuyên và phổ biến nhất là huy động vốn và sử dụng vốn đó để cho vay, đồng thời thực hiện các
    nghiệp vụ khác trong khuôn khổ pháp luật nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận.
    1.1.2 Chức năng của NHTM:
    1.1.2.1 Chức năng trung gian tín dụng:
    - Trung gian tín dụng giữa các chủ thể tạm thời thừa vốn và các chủ thể tạm thời thiếu vốn:
    Với nội dung trung gian tín dụng, NHTM tiến hành huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ
    tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn cho vay và sử dụng nguồn vốn đó để cho
    vay, chiết khấu và đầu tư vào các nhu cầu khác trong nền kinh tế. Nói cách khác, NHTM vừa
    ―mua‖ tiền vừa ―bán‖ tiền , và phần chênh lệch giữa giá ―bán‖ và giá ―mua‖ tiền như vậy chính là
    một nguồn lợi nhuận đáng kể trong ngân hàng.
    - Trung gian tín dụng giữa NHTW và nền kinh tế: Khi đã tận dụng mọi nguồn vốn nhàn rỗi
    trong nền kinh tế, kể cả nguồn vốn tự có, nguồn vốn khác nhưng vẫn không đủ đáp ứng cho nhu
    cầu sử dụng vốn trong kỳ của mình, các NHTM sẽ tiến hành xin vay vốn tại NHTW.
    Chức năng này có ý nghĩa to lớn và rõ rệt trong nền kinh tế, người thừa vốn có thể đảm bảo
    cho nguồn vốn của mình được an toàn, một mặt lại được sinh lời, còn người thiếu vốn thì có thể
    tiếp cận được nguồn vốn nhanh chóng phục vụ cho đời sống và kinh doanh của mình, góp phần
    đẩy mạnh quá trình vận động của vốn tiền tệ trong xã hội.
    1.1.2.2 Chức năng trung gian thanh toán:Khoá luận tốt nghiệp SVTH: Phạm Thị Kim Uy
    - 4 -
    Thực hiện chức năng này, NHTM tiến hành trả tiền cho khách hàng theo lệnh của chủ tài
    khoản và nhập vào tài khoản những khoản tiền theo lệnh của họ. Thực chất chức năng này là ngân
    hàng vừa làm thủ quỹ lại vừa thực hiện các dịch vụ uỷ nhiệm của khách hàng. Chức năng trung
    gian thanh toán có ý nghĩa đối với khách hàng của ngân hàng vì đã tạo điều kiện thuận lợi giúp
    cho khách hàng trong quan hệ thanh toán, ngoài ra nó còn có ý nghĩa với nền kinh tế vì nó giúp tiết
    kiệm tièn mặt lưu thông và tiết kiệm chi phí lưu thông tiền tệ.
    1.1.2.3 Chức năng tạo tiền:
    Xuất phát từ chức năng trung gian tín dụng và chức năng trung gian thanh toán, NHTM vừa
    nhận tiền gửi vừa cho vay bằng chuyển khoản, làm tiền đề và điều kiện cho hệ thống NHTM có
    khả năng tạo tiền. Nghĩa là hệ thống NHTM có thể nhân rộng tiền ghi sổ từ tiền gửi nhận được của
    khách hàng cá nhân, doanh nghiệp, công ty, tổ chức kinh tế và các thành phần khác.
    Với khoản tiền gửi nhận được ban đầu thông qua cho vay bằng chuyển khoản kết hợp với
    thanh toán không dùng tiền mặt, nên NHTM có khả năng mở rộng tiền gửi không kỳ hạn lên gấp
    nhiều lần, do đó tạo thêm tiền (bút tệ) cho lưu thông. Quá trình tạo tiền phụ thuộc vào hệ số nhân
    tiền gửi mở rộng, hệ số này lại phụ thuộc vào tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nghĩa là: nếu tỷ lệ dự trữ bắt
    buộc càng thấp thì khả năng tạo tiền của ngân hàng càng cao và ngược lại.
    1.1.3 Vai trò của NHTM:
    - Là nguồn cung ứng vốn lớn và kịp thời cho các cá nhân và doanh nghiệp hoạt động trong
    nền kinh tế: Trong nền kinh tế luôn tồn tại những chủ thể thừa vốn và chủ thể thiếu vốn tạm thời,
    NHTM là cầu nối giúp huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư và sử dụng chúng để cho vay
    lại một cách hiệu quả, giúp đồng vốn quay vòng nhanh hơn, đây cũng chính là vai trò được thể
    hiện rõ nét nhất của hệ thống NHTM.
    - Góp phần phân bổ và hợp lý hoá nguồn lực trong từng vùng miền, từng quốc gia.
    - Tạo môi trường giúp thực thi chính sách tiền tệ của NHTW: Thông qua các công cụ như
    Lãi suất, dự trữ bắt buộc, thị trường mở hệ thống NHTM chính là trung gian giúp đưa những
    chính sách tiền tệ của NHTW trong từng thời kỳ đến với nền kinh tế để thực thi chúng một cách
    hiệu quả.
    - Góp phần phát triển quá trình quốc tế hoá giữa các quốc gia: Với các nghiệp vụ như
    tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế đã tạo điều kiện giúp cho nền kinh tế các nước
    xích lại gần nhau hơn.
    1.1.4 Hoạt động chủ yếu của ngân hàng:
    1.1.4.1 Huy động vốn:
    - Nhận tiền gửi của các tổ chức kinh tế (tiền gửi thanh toán, tiền gửi không kỳ hạn,
    tiền ký quỹ ) và cá nhân (tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, không kỳ Khoá luận tốt nghiệp SVTH: Phạm Thị Kim Uy
    - 5 -
    hạn ), cùng một số loại tiền gửi khác (tiền gửi vốn chuyên dùng, tiền gửi của các tổ chức
    tín dụng khác, tiền gửi của kho bạc Nhà nước ).
    - Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác để huy động vốn
    của các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước.
    - Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác trong và ngoài nước.
    - Vay vốn của NHTW thông qua hình thức tái cấp vốn, mà chủ yếu là dưới hình thức
    chiết khấu và tái chiết khấu giấy tờ có giá.
    1.1.4.2 Hoạt động cấp tín dụng:
    Là việc thỏa thuận để tổ chức, cá nhân sử dụng một khoản tiền hoặc cam kết cho phép
    sử dụng một khoản tiền theo nguyên tắc có hoàn trả bằng nghiệp vụ cho vay, chiết khấu,
    cho thuê tài chính, bao thanh toán, bảo lãnh ngân hàng và các nghiệp vụ cấp tín dụng khác.
     Cho vay trực tiếp (Cho vay): Là hình thức cấp tín dụng, theo đó bên cho vay
    giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích xác định
    trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Đây
    là một trong những hoạt động chủ yếu của lĩnh vực Tín dụng ngân hàng.
    Có nhiều cách phân loại cho vay: nếu căn cứ vào mục đích sử dụng vốn sẽ chia ra làm
    cho vay đầu tư kinh doanh và cho vay tiêu dùng; nếu căn cứ vào hình thức đảm bảo sẽ chia
    làm cho vay có đảm bảo bằng tài sản (cầm cố, thế chấp, đảm bảo bằng tài sản của bên bảo
    lãnh, tài sản hình thành từ vốn vay) và cho vay có đảm bảo không bằng tài sản (tín chấp);
    nếu căn cứ vào thời hạn sẽ chia thành cho vay ngắn hạn (dưới 1 năm), cho vay trung hạn
    (từ 1 đến 5 năm) và cho vay dài hạn (trên 5 năm).
    Trên thực tế, cho vay trung và dài hạn được xem là một trong những phương án tối ưu
    cho doanh nghiệp khi cần huy động vốn trung dài hạn. Doanh nghiệp huy động vốn trung
    vài dài hạn thường với các mục đích như: mua sắm tài sản cố định, dự trữ tài sản lưu động
    thường xuyên, trả các khoản nợ cũ, mua lại doanh nghiệp hay thành lập doanh nghiệp
    mới
    Các phương thức cho vay trung và dài hạn bao gồm:
    +Cho vay trả góp: doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để mua sắm máy móc, thiết bị
    Tiền vay được thanh toán dần từng định kỳ.
     
Đang tải...