Thạc Sĩ Công tác giám sát trong Đảng giai đoạn hiện nay

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 22/1/15.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Mục lục

    Trang
    Mở đầu 1
    Ch-ơng 1: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về công tác giám sát
    trong Đảng 11
    1.1. Quan niệm về giám sát trong Đảng 11
    1.2. Vị trí, vai trò giám sát trong Đảng 20
    1.3. Nội dung, nguyên tắc giám sát trong Đảng 29
    Ch-ơng 2: Công tác giám sát trong Đảng hiện nay- Thực trạng,
    nguyên nhân, kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra 32
    2.1. Công tác giám sát trong Đảng tr-ớc Đại hội X 32
    2.2. Công tác giám sát trong Đảng từ Đại hội X đến nay 63
    Ch-ơng 3: Ph-ơng h-ớng và những giải pháp chủ yếu tăng c-ờng
    công tác giám sát trong Đảng giai đoạn hiện nay 98
    3.1. Dự báo những nhân tố thuận lợi và khó khăn tác động đến giám
    sát trong Đảng 98
    3.2. Quan điểm và định h-ớng tăng c-ờng giám sát trong Đảng 116
    3.3. Những giải pháp chủ yếu 128
    3.3.1. Tạo chuyển biến mạnh mẽ, nâng cao nhận thức, trách nhiệm
    của các cấp uỷ, tổ chức đảng, UBKT các cấp, cán bộ, đảng
    viên và nhân dân tr-ớc nhất là ng-ời đứng đầu cấp uỷ 128
    3.3.2. Xây dựng và hoàn thiện chế độ giám sát, cơ chế giám sát
    trong Đảng 140
    3.3.3. Mở rộng dân chủ trong Đảng là cơ sở, điều kiện tăng c-ờng
    giám sát trong Đảng 152
    3.3.4. Nâng cao vị thế, vai trò của UBKT các cấp là cơ quan
    chuyên trách, lực l-ợng nòng cốt cùng toàn Đảng thực hiện
    giám sát trong Đảng 157
    3.3.5. Đổi mới nhận thức, tăng c-ờng giám sát tổ chức đảng cấp
    trên và cán bộ lãnh đạo chủ chốt nhất là cấp Trung -ơng 171
    3.3.6. Xây dựng và hoàn thiện cơ chế phối hợp giám sát trong
    Đảng và giám sát ngoài Đảng 182
    3.3.7. Nâng cao hiệu quả phối hợp công tác giữa UBKT của cấp uỷ
    đảng và thanh tra nhà n-ớc cùng cấp 188
    Kết luận 200
    Sản phẩm nghiên cứu đề tài 201
    Danh mục tài liệu tham khảo 202 1
    Mở đầu
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Giám sát là công việc không thể thiếu, diễn ra trong tất cả các khâu của
    quy trình lãnh đạo và quản lý. Từ rất sớm, Đảng ta đã quan tâm đến công việc
    giám sát hoạt động của tổ chức đảng, đảng viên và các cơ quan trong hệ thống
    chính trị. Ngay trong Điều lệ Đảng (sửa đổi) tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần
    thứ III của Đảng (năm 1960) đã yêu cầu: "Phải tăng c-ờng công tác kiểm tra
    và giám sát của Đảng đối với cán bộ và cơ quan nhà n-ớc, giữ gìn kỷ luật
    nghiêm minh, xử lý thích đáng đối với những phần tử quan liêu gây tác hại
    nghiêm trọng cho Đảng và Nhà n-ớc". Trong Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
    Nam các khoá VIII, IX cũng ghi: " . Đảng chịu sự giám sát của nhân dân" .
    Do đó, Đảng cần cả "sự giám sát nội bộ Đảng" và cả "chịu sự giám sát của
    nhân dân" sẽ giúp cho việc tăng c-ờng kỷ c-ơng, kỷ luật của Đảng, nâng cao
    năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên.
    B-ớc vào thời kỳ đổi mới đẩy mạnh CNH, HĐH đất n-ớc, bên cạnh
    những thành tựu rất quan trọng đã đạt đ-ợc, do tác động tiêu cực của mặt trái
    của cơ chế thị tr-ờng cùng sự thiếu th-ờng xuyên rèn luyện tu d-ỡng, nên một
    bộ phận cán bộ, đảng viên và cả một số tổ chức đảng đã bộc lộ những mặt yếu
    kém. Tổ chức đảng ở nhiều nơi chấp hành các nguyên tắc của Đảng, tr-ớc hết
    là nguyên tắc tập trung dân chủ ch-a nghiêm, sinh hoạt lỏng lẻo; đấu tranh tự
    phê bình và phê bình giảm sút, sức chiến đấu yếu dẫn đến vi phạm kỷ luật.
    Nhiều tổ chức cơ sở và chi bộ không đủ sức giải quyết những vấn đề phức tạp
    nảy sinh từ cơ sở, cá biệt còn tê liệt, mất sức chiến đấu. Công tác kiểm tra,
    quản lý cán bộ, đảng viên thực hiện một cách chiếu lệ. Nhiều cấp uỷ, tổ chức
    đảng ch-a coi trọng công tác kiểm tra, coi công tác này là của uỷ ban kiểm tra
    chứ không phải của chính bản thân cấp uỷ. Báo cáo tổng kết 20 năm đổi mới
    đã chỉ rõ: "Còn tình trạng nói mà không làm, ra nghị quyết mà không thực
    hiện hoặc thực hiện nửa vời. Việc theo dõi kiểm tra, đôn đốc triển khai nghị
    quyết làm ch-a tốt; việc xử lý sai phạm trong thực hiện nghị quyết ch-a
    nghiêm" [tr.125]. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên phai nhạt lý 2
    t-ởng, tính Đảng yếu, giảm sút ý chí chiến đấu, ngại tu d-ỡng, rèn luyện, chạy
    theo lối sống thực dụng, vị kỷ dẫn đến suy thoái về t- t-ởng chính trị, đạo đức
    và lối sống; tình trạng cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, mất đoàn kết của một bộ
    phận cán bộ, đảng viên làm giảm sút uy tín của Đảng, làm xói mòn niềm tin
    của nhân dân, đang trở thành một trong những nguy cơ lớn nhất hiện nay. "Do
    cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng ch-a tạo đ-ợc chuyển biến cơ bản
    nên có thể nói "nguy cơ tham nhũng, quan liêu" đã nổi lên nh- là một mối de
    doạ sự tồn vong của Đảng và chế độ" [tr.123].
    Từ những kết quả kiểm tra thời gian qua cho thấy hầu hết các cấp, các
    ngành, các lĩnh vực đ-ợc kiểm tra đều có vi phạm, đáng chú ý là tình trạng
    tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thiếu trách nhiệm, buông lỏng quản lý, cố ý
    làm trái . đang xảy ra trầm trọng và ngày càng gia tăng, đã xảy ra trong thời
    gian dài hoặc đã lâu nh-ng ít đ-ợc phát hiện, kiểm tra làm rõ; nhiều cán bộ
    chủ chốt để vợ con, ng-ời thân lợi dụng chức vụ quyền hạn trục lợi, làm giàu
    bất chính. Nội dung, tính chất, mức độ vi phạm ngày càng nghiêm trọng, phức
    tạp, tinh vi, có tổ chức, liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều ng-ời,
    nếu phát hiện đ-ợc và tiến hành kiểm tra, thanh tra, điều tra thì có việc, có vụ
    còn bị can thiệp từ nhiều phía, gây khó khăn cho các cơ quan chức năng. Một
    số vụ vi phạm nghiêm trọng nh-ng ch-a đ-ợc các cơ quan chức năng giám
    sát, kiểm tra phát hiện kịp thời nên đã bỏ lọt vi phạm. Báo cáo tổng kết 20
    năm đổi mới chỉ rõ: "Vai trò giám sát, phản biện của các ban của Đảng, Mặt
    trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn yếu; ch-a có cơ chế hợp lý để phát
    huy vai trò của các bộ phận này" [tr.126]. Do buông lỏng việc kiểm tra, giám
    sát nên ch-a chủ động ngăn chặn vi phạm trong Đảng.
    Từ tình hình trên, đòi hỏi Đảng phải tiếp tục tự đổi mới, tự chỉnh đốn để
    xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên ngang tầm với yêu cầu
    của nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới, nhất là khi chúng ta tiếp tục
    thực hiện xây dựng nền kinh tế thị tr-ờng định h-ớng XHCN cả về chiều rộng
    và chiều sâu, chắc chắn sẽ có nhiều khó khăn, trở ngại, thách thức, nguy cơ
    mới trong điều kiện một đảng cộng sản duy nhất cầm quyền. Để đạt đ-ợc mục
    tiêu nói trên, nhất thiết phải tăng c-ờng công tác xây dựng Đảng, công tác 3
    kiểm tra, giám sát là một nội dung quan trọng cần đ-ợc đẩy mạnh.
    Từ tr-ớc Đại hội X của Đảng, các cấp uỷ, tổ chức đảng, ủy ban kiểm tra
    các cấp chủ yếu thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm tra còn chức năng,
    nhiệm vụ giám sát trong Điều lệ Đảng chỉ quy định "Đảng chịu sự giám sát
    của nhân dân", ch-a quy định cụ thể việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám
    sát của các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên. Nh-ng trong thực tế các cấp uỷ
    (kể cả Ban Chấp hành Trung -ơng, Bộ Chính trị, Ban Bí th-), tổ chức đảng, uỷ
    ban kiểm tra các cấp và đảng viên đã và đang thực hiện chức năng, nhiệm vụ
    giám sát. Riêng uỷ ban kiểm tra các cấp thì việc thực hiện chức năng, nhiệm
    vụ giám sát với phạm vi, đối t-ợng, nội dung còn hẹp. Tuy nhiên, nhiệm vụ
    này ch-a đ-ợc xác định một cách rõ ràng và ch-a đ-ợc thực hiện theo một
    ch-ơng trình, kế hoạch cũng nh- quy trình, ph-ơng pháp cụ thể và đặc biệt
    ch-a bố trí lực l-ợng tiến hành th-ờng xuyên. Nh- vậy, việc thực hiện chức
    năng, nhiệm vụ giám sát là của toàn Đảng, trong đó có uỷ ban kiểm tra các
    cấp là cơ quan chuyên trách thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát trong
    Đảng. Bởi vì, trong điều kiện Đảng là cơ quan duy nhất cầm quyền, Đảng lãnh
    đạo cả hệ thống chính trị mà không đ-ợc giám sát chặt chẽ, rất dễ lộng quyền,
    lạm quyền và làm giảm lòng tin của nhân dân, tất yếu sẽ dẫn đến tiêu cực,
    quan liêu, tham nhũng. Đó là những nguy cơ bên trong làm suy yếu, thậm chí
    làm tan rã Đảng. Đây là điều cần đ-ợc cảnh báo để chúng ta thấy rõ và kiên
    quyết tìm mọi biện pháp khắc phục cho bằng đ-ợc. Đối với tổ chức càng cao
    càng cần phải đ-ợc giám sát chặt chẽ. Ng-ời giữ quyền hành càng lớn càng
    phải đ-ợc giám sát nghiêm ngặt, tiến hành giám sát đối với quyền lực, phòng
    ngừa lạm dụng quyền lực, thực hiện lấy quyền lực chế -ớc quyền lực. Vì vậy,
    giám sát hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên là vấn đề cấp bách hiện
    nay. Nó xuất phát từ đòi hỏi khách quan của công tác xây dựng Đảng và yêu
    cầu của giai đoạn cách mạng mới, bảo đảm cho Đảng ta, tr-ớc hết là các cơ
    quan lãnh đạo và những ng-ời lãnh đạo của Đảng luôn kiên định về chính trị,
    vững vàng về đ-ờng lối, không chệch h-ớng; có phẩm chất cách mạng tốt,
    ngăn ngừa suy thoái về t- t-ởng chính trị, đạo đức và lối sống. Đây là một vấn
    đề cơ bản, cấp bách hiện nay, thôi thúc chúng tôi lựa chọn đề tài: "Công tác 4
    giám sát trong Đảng giai đoạn hiện nay" để nghiên cứu. Nhất là, sau khi Đại
    hội X của Đảng (tháng 4 - 2006) khẳng định giám sát là một trong những
    chức năng lãnh đạo của Đảng và giao chức năng, nhiệm vụ giám sát trong
    Đảng cho cấp uỷ đảng và uỷ ban kiểm tra các cấp.
    2. Tổng quát tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
    Mặc dù Đảng ta đã rất quan tâm đến công tác giám sát hoạt động của
    các tổ chức đảng và đảng viên nh-ng đến nay vấn đề này vẫn là mới mẻ, các
    nghị quyết, văn bản h-ớng dẫn, công trình nghiên cứu còn rất ít. Có thể điểm
    qua một số bài tạp chí sau đây:
    - Nguyễn Thị Doan, "Một số giải pháp nâng cao hiệu lực, hiệu quả
    hoạt động giám sát của Đảng", Tạp chí Cộng sản điện tử, số 42, năm 2003.
    Tác giả đã mạnh dạn, thẳng thắn chỉ rõ: "Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam,
    việc giám sát hoạt động của Đảng và đảng viên là lẽ đ-ơng nhiên". Trong điều
    kiện mới của đất n-ớc và quốc tế theo tác giả để hoạt động giám sát trong
    Đảng có hiệu lực và hiệu quả cần thực hiện tốt hai giải pháp: Một là, xây dựng
    và ban hành chính sách, cơ chế phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân
    dân để nhân dân thực sự giám sát đ-ợc Đảng; hai là, cần giao thêm chức năng
    giám sát cho uỷ ban kiểm tra các cấp.
    Tác giả khẳng định, để nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động giám
    sát trong Đảng, cần phải có chính sách, cơ chế đủ hiệu lực để uỷ ban kiểm tra
    các cấp hoạt động, đặc biệt cần có chính sách phù hợp đối với những cán bộ
    làm công tác kiểm tra Đảng. Đồng thời các tổ chức đảng, cấp uỷ đảng và đảng
    viên phải có sự đổi mới nhận thức về công tác giám sát, kiểm tra, xoá bỏ t-
    t-ởng của một số cán bộ, đảng viên là không ai muốn giám sát và kiểm tra
    mình. Giám sát và kiểm tra là nhằm hoàn thiện quy trình lãnh đạo của Đảng,
    để phát hiện "ng-ời tốt, việc tốt", ngăn ngừa vi phạm, giữ gìn kỷ luật của
    Đảng, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh.
    - Nguyễn Thị Doan, "Tăng c-ờng công tác giám sát trong Đảng", Tạp
    chí Cộng sản điện tử, số 71, năm 2004. Tác giả phân tích khá rõ về khái niệm 5
    giám sát và kiểm tra, khẳng định "giám sát cũng là một chức năng lãnh đạo
    của Đảng". Từ việc phân tích yêu cầu cấp bách phải tăng c-ờng giám sát trong
    Đảng, tác giả đề xuất: "Trong điều kiện hiện nay, giao chức năng giám sát và
    thực hiện nhiệm vụ giám sát cho uỷ ban kiểm tra các cấp là phù hợp với thực tiễn
    lý luận"; và "việc thành lập uỷ ban kiểm tra do đại hội đảng cùng cấp bầu".
    Theo tác giả, giám sát là công việc của Đảng, việc tăng c-ờng công tác
    giám sát của uỷ ban kiểm tra đối với tổ chức đảng và đảng viên vẫn ch-a đủ
    mà cần phải xây dựng và ban hành cơ chế để nhân dân thật sự giám sát hiệu
    quả cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng. Cuối cùng, tác giả kết luận, trong giai
    đoạn cách mạng mới, phải tăng c-ờng công tác giám sát trong Đảng, cần ban
    hành cơ chế nhân dân giám sát cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng mang tính
    pháp lý, tiến tới xác định cơ quan đảng có chức năng giám sát và thực hiện
    nhiệm vụ giám sát trong Đảng.
    - Chiến Thắng, "Một số ý kiến về công tác kiểm tra, giám sát của uỷ
    ban kiểm tra các cấp", Tạp chí Kiểm tra, số 12/2005. Tác giả góp ý kiến vào
    Dự thảo Báo cáo một số vấn đề về bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng trình Đại hội
    X của Đảng, khẳng định việc Dự thảo này có vấn đề giám sát trong Đảng và
    nêu rõ kiểm tra, giám sát là những chức năng lãnh đạo của Đảng, đồng thời
    giao thêm chức năng giám sát và nhiệm vụ giám sát cho uỷ ban kiểm tra là
    cần thiết. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, việc giám sát hoạt động của Ban Cấp
    hành Trung -ơng, Bộ Chính trị và Ban Bí th- Trung -ơng ch-a thấy đ-ợc đề
    cập đến, tại sao lại không có cơ quan nào kiểm tra và giám sát? Trên cơ sở
    luận giải vấn đề, tác giả viết: "Với tinh thần đổi mới, với cách t- duy và nhận
    thức mới và xuất phát từ tình hình đất n-ớc hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng
    việc đại hội bầu uỷ ban kiểm tra và giao cho uỷ ban kiểm tra nhiệm vụ giám
    sát cấp uỷ cùng cấp là phù hợp. Chắc chắn sẽ góp phần tích cực xây dựng
    Đảng ta vững mạnh về chính trị, t- t-ởng và tổ chức, đồng thời cũng tác động
    mạnh mẽ đến việc ngăn chặn và đẩy lùi các tiêu cực trong Đảng từ trung -ơng
    đến cơ sở".
    - Trần Duy H-ng, "Tăng c-ờng giám sát đảng viên giữ chức vụ trong 6
    Đảng, chính quyền hiện nay", Tạp chí Kiểm ra, số 1-2006. Từ phân tích khái
    quát thực trạng -u và khuyết điểm của đội ngũ đảng viên có chức, có quyền
    hiện nay, tác giả b-ớc đầu khẳng định: "Giám sát đảng viên có chức, có quyền
    chính là giám sát quyền lực, bảo đảm cho quyền lực đ-ợc thực thi đúng
    h-ớng; ngăn ngừa lạm dụng quyền lực, đặc quyền, đặc lợi; ngăn ngừa sự thoái
    hoá, biến chất trong Đảng. Đây chính là yêu cầu khách quan đối với nâng cao
    vai trò lãnh đạo của đảng cầm quyền; là điều kiện cơ bản bảo đảm duy trì ổn
    định chính trị - xã hội". Tác giả cho rằng: việc tăng c-ờng giám sát đảng viên
    có chức, có quyền phải có sự kết hợp giữa giám sát trong Đảng và giám sát
    ngoài Đảng; việc giám sát phải đ-ợc thực hiện từ trên xuống và từ d-ới lên,
    đặc biệt coi trọng vai trò giám sát của nhân dân. Tổ chức đảng các cấp phải
    tích cực thực hiện giám sát; đảng viên có chức, có quyền phải tự giác tiếp thu
    giám sát, nâng cao bản lĩnh và tính tự trọng trong thi hành công vụ, đề cao
    trách nhiệm, nỗ lực học tập, công tác; toàn xã hội phải tăng c-ờng giám sát
    nghiêm túc.
    - Vũ Công Tiến, "Để thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát của
    Đảng", Tạp chí Kiểm tra, số 2-2006. Tác giả cho rằng kiểm tra, giám sát là
    cụm từ gắn liền với nhau, nêu rõ chức năng và bản chất của kiểm tra, giám sát
    của Đảng. Kiểm tra là điều kiện "cần" để xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng:
    không kiểm tra coi nh- không lãnh đạo và giám sát là điều kiện "đủ" để hoàn
    thiện chức năng lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra, giám sát là những điều kiện cần
    và đủ để cho việc đề ra chủ tr-ơng, nghị quyết và tổ chức thực hiện, đ-a chủ
    tr-ơng, nghị quyết của Đảng vào cuộc sống một cách nhất quán, toàn diện và
    hiệu quả, thông qua nhận thức và hành động của mỗi tổ chức và mỗi đảng viên
    của Đảng".
    - Hà Quốc Trị, "Về thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát trong
    Đảng", Tạp chí Kiểm tra, số 3-2006. Trên cơ sở phân tích về khái niệm kiểm
    tra và giám sát, tác giả cho rằng việc giám sát trong nội bộ Đảng và chịu sự
    giám sát của nhân dân là tất yếu. Đ-a ra một số ý kiến về vấn đề giám sát
    Đảng nh- nội dung tập trung giám sát; đối t-ợng và nội dung giám sát đối với 7
    tổ chức đảng; đối t-ợng và nội dung giám sát đối với đảng viên, tác giả khẳng
    định: "Trong quá trình giám sát nếu phát hiện tổ chức đảng và đảng viên thuộc
    phạm vi giám sát có dấu hiệu vi phạm thì uỷ ban kiểm tra tiến hành kiểm tra
    dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng và đảng viên đó.
    Qua thực hiện chức năng, nhiệm vụ giám sát, tạo điều kiện thuận lợi
    cho uỷ ban kiểm tra trong việc tăng khả năng, điều kiện chủ động nắm tình
    hình, phát hiện dấu hiệu vi phạm để kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm đúng
    trọng tâm, trọng điểm, đạt chất l-ợng, hiệu quả cao hơn; khắc phục đ-ợc
    những khó khăn, v-ớng mắc trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ kiểm tra".
    Tóm lại, nhìn chung vấn đề giám sát trong Đảng đã đ-ợc đ-a vào trong
    Dự thảo báo cáo xây dựng Đảng và bổ sung, sửa đổi Điều lệ Đảng trình Đại
    hội X của Đảng. Vấn đề này đã đ-ợc thảo luận ở Đại hội đảng bộ các cấp,
    trong quá trình thảo luận vẫn còn có nhận thức khác nhau. Trong phát biểu
    của đồng chí Phan Diễn, Uỷ viên Bộ Chính trị, Th-ờng trực Ban Bí th- tại Hội
    nghị tổng kết công tác kiểm tra toàn quốc nhiệm kỳ 2001-2005, có đoạn:
    "Giám sát cái gì? giám sát việc thực hiện C-ơng lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết, chủ
    tr-ơng của Đảng, nguyên tắc sinh hoạt đảng . Đây sẽ là một nhiệm vụ mới mà
    chúng ta lại ch-a có kinh nghiệm"; "sắp đến còn có công tác giám sát, nó rất
    mới. Nếu đ-ợc Đại hội giao cho nhiệm vụ này, chúng ta phải có sự khẩn
    tr-ơng tìm hiểu nội dung, kinh nghiệm của các n-ớc . chúng ta có thể thực
    hiện từng b-ớc đ-ợc tốt".
    Liên quan đến nghiên cứu công tác giám sát của một số đảng cầm
    quyền n-ớc ngoài có thể tham khảo một số tài liệu sau:
    - "Điều lệ giám sát nội bộ của Đảng Cộng sản Trung Quốc (thi hành
    thử)". Ban hành chính thức ngày 31/12/2003, công bố trên báo chí ngày 18-2-
    2004 (47 điều, bản tiếng Trung).
    - Tôn Phụ Trí, "Bàn về tăng c-ờng giám sát cán bộ lãnh đạo", Tạp chí
    Diễn đàn cán bộ Trung Quốc, số 1 năm 1997 (bản tiếng Trung).
    - Lý Tông Lâu, "Tăng c-ờng chế độ giám sát trong Đảng Cộng sản
    Trung Quốc", Tạp chí Nghiên cứu chủ nghĩa xã hội, (Bản tiếng Trung).
    - V-ơng Thiều H-ng, "Bàn về vấn đề kiểm tra, giám sát của Đảng",
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...