Báo Cáo Công nghiệp hóa ngoại vị ở một số nước

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CÔNG NGHIỆP HOÁ NGOẠI VI Ở MỘT SỐ NƯỚC

    Phạm Quang Diệu - biên dịch (2004)


    Ở Thái Lan, vai trò của Chính phủ TW rất quan trọng Thực tế trên dẫn đến hậu quả là không có sự gắn kết giữa công việc và sinh hoạt trong ESB. Sự yếu kém của các cấp chính quyền dẫn đến hiện tượng tuy có rất nhiều khu công nghiệp và hoạt động hiệu quả song các hoạt động dịch vụ nông thôn trong vùng vẫn không có nhiều thay đổi, không mang lại lợi về công ăn việc làm cung như ích kinh tế rõ rệt cho địa phương. Như vậy, hoạt động công nghiệp là điều kiện thuận lợi song chưa đảm bảo dẫn đến đô thị hoá sẽ diễn ra nhanh mạnh được.

    Philippin có vai trò quan trọng của tư nhân và chính quyền địa phương

    TQ: Một điểm khác nữa, và có thể coi là thế mạnh của Trung Quốc là các vùng đô thị ngoại vi thường có xu hướng lan rộng chứ không dừng lại ở quy mô đã định sẵn. Đây là kết quả của hệ thống quản lý hành chính: mỗi tỉnh thường có một khu đô thị, thường là trung tâm của tỉnh, huyện lại có trung tâm của huyện. Các khu trung tâm này đều có khả năng lan tỏa, mở rộng, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa. Hiện tượng này cũng sẽ xảy ra ở những nước có vốn nền kinh tế kế hoạch tập trung giống như Trung Quốc (ví dụ Việt Nam).


    Eastern Seaboard - Thái Lan

    Eastern Seaboard (ESB) là vùng đô thị ngoại vi nổi tiếng ở Thái Lan, nằm trên 3 tỉnh Chachoengsao, Chonburi và Rayong với tổng số dân khoảng gần 3 triệu. ESB được coi là khu công nghiệp trung tâm của Đông Nam Á. Trong những năm 90 (từ 1992-1998), dân số của ESB tăng khoảng 2%/năm. Đây là mức tăng tương đối thấp so với các vùng đô thị ngoại vi của một số nơi của trung Quốc hay Philippin. Nguyên nhân chính là do:

     Mức tăng dân số tự nhiên thấp.
     Mức độ đô thị hóa ở vùng ngoại vi Bangkok diễn ra chậm kể từ sau khủng hoảng tài chính Đông Nam Á năm 1997 và;
     ESB là khu tập trung vốn và kỹ thuật cao với các ngành công nghiệp chế tạo máy tự động, hóa dầu, sản xuất hàng điện tử vốn không tập trung nhiều lao động. Mặc dù vậy, 2% vẫn là tỷ lệ tăng dân số cao so với các vùng khác của Thái Lan trong cùng thời kỳ (tỷ lệ ở Bangkok là 0,56%).

    Cả chính phủ lẫn khu vực tư nhân đều có đóng góp trong việc hình thành ESB, trong đó, Chính phủ đóng vai trò quan trọng. Những năm 80, chính phủ Thái Lan xây dựng kế hoạch thành lập vùng phát triển ESB. Chính phủ đầu tư vào cơ sở hạ tầng (xây dựng hai cảng lớn bao gồm cảng container Laem Changbang và cảng hàng hóa Map Ta Phut), thiết lập các chính sách ưu đãi áp dụng trong vùng, đồng thời thành lập trung tâm điều phối - quản lý vùng (CIPO) trực thuộc Văn phòng phát triển kinh tế xã hội quốc gia. Các nhà đầu tư quan trọng từ Nhật Bản, EU và Mỹ đã được kêu gọi đến đầu tư vào ESB. Cho đến năm 1997, tổng số tiền đầu tư vào ESB đã lên tới 328 tỷ yên Nhật - một nửa trong tổng số tiền vay từ JBIC cho dự án mở rộng vùng Bangkok – vùng đô thị hóa mở rộng lớn nhất trên thế giới. Chính phủ Thái Lan đã đầu tư rất mạnh vào cơ sở hạ tầng: xây dựng cầu cảng, đường cao tốc, cảng nội địa, v v. Trái ngược với phần đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chính phủ chỉ đầu tư một tỷ lệ rất nhỏ (12%) vào lĩnh vực dịch vụ cộng đồng (trường học, bệnh viện, khu thương mại, khu vui chơi giải trí, v v) và dịch vụ môi trường trong ESB. Lĩnh vực này chủ yếu dành cho các doanh nghiệp tư nhân hoặc chính quyền địa phương đầu tư. Nhưng do lực lượng này ở Thái Lan không tập trung như ở Philipin, các hạng mục đầu tư thường nhỏ, lẻ, không đáp ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp cũng như người lao động. Kết quả là những khu đô thị nhỏ gần sát ESB được xây dựng để giải quyết nhu cầu sinh hoạt và định cư cho người lao động trong vùng đã thường xuyên bị bỏ trống vì người lao động thích thuê nhà và sinh sống ở những vùng có tiện nghi tốt hơn dù khoảng cách xa hơn.

    Kinh tế trong khu vực ESB vẫn duy trì tăng trưởng rất tốt trong suốt thời gian khủng hoảng tài chính Đông Nam Á. Các doanh nghiệp hoạt động hiệu quả cùng với đồng Baht giảm giá (từ 25 Baht xuống còn 56 Baht đổi 1 USD trong thời kỳ đỉnh cao của cuộc khủng hoảng) tạo điều kiện thuận lợi cả vùng phát triển nền kinh tế theo hướng xuất khẩu. Trong khủng hoảng kinh tế (từ quý 3 năm 1997 đến quý 3 năm 1999), trong khi 120000 việc làm trong lĩnh vực công nghiệp tại khu trung tâm Bangkok bị mất đi, vùng công nghiệp ngoại vi đã tạo thêm 57000 việc làm. Tỷ lệ thất nghiệp trong ESB tăng lên mức cao nhất trong thời kỳ khủng hoảng, 2.6%, nhưng vẫn là tỷ lệ thấp nhất so với các vùng khác của toàn Thái Lan.

    Thông thường, các vùng công nghiệp ngoại vi được hình dung là những vùng kinh tế bất ổn vì các nhà đầu tư nước ngoài thường đến hoặc đi rất nhanh tùy thuộc vào từng thời điểm và điều kiện khác nhau. Với ESB, điều này đã không xảy ra. Rất nhiều doanh nghiệp lớn đầu tư trong các lĩnh vực chế tạo máy tự động, sản xuất hàng chủ yếu dành cho xuất khẩu đã xác định gắn bó lâu dài. Lý do là họ xây dựng được mối quan hệ chặt chẽ với các nhà cung cấp nguyên liệu và dịch vụ địa phương và không có bất đồng với các thể chế trong vùng (bao gồm cả các mối quan hệ với chính quyền địa phương). Như vậy, tổng hợp các yếu tố bao gồm giá thành sản xuất giảm, đầu tư lớn và sự gắn bó chặt chẽ của doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh của khu vực ESB đã được củng cố đáng kể.

    Đáng tiếc là, như đã nói ở trên, mảng dịch vụ cộng đồng và dịch vụ môi trường trong ESB do tư nhân và chính quyền địa phương đầu tư dàn trải, nhỏ lẻ, dưới sự ảnh hưởng của càng nhiều sức ép trong và sau khủng hoảng kinh tế, đã ngày càng thể hiện sự yếu kém, khó phát huy ưu điểm và không mang lại được những kết quả khả quan trường hợp của Singapore.

    Khu vực ngoại vi ở Thái Lan được hình thành ở những vùng xa trung tâm hơn so với các khu công nghiệp ngoại vi của các nước Đông Á khác. Nguyên nhân chính là do cơ cấu ưu tiên phát triển công nghiệp của Thái Lan cho đến năm 2000 vẫn tập trung ở tỉnh Rayong - một tỉnh cách Bangkok 190km. Một số khu công nghiệp trong vùng này (như khu công nghiệp Detroit of the East, do hãng Hemeraj đầu tư) được xây dựng ở khu vực giáp ranh giữa hai tỉnh Chonburi và Rayong. Như vậy, nhà đầu tư có thể thu được lợi ích tối đa từ vị trí địa lý vừa gần Bangkok nhưng vẫn hưởng các chính sách khuyến khích ưu đãi chung của toàn vùng. Một số nguyên nhân khác cũng ảnh hưởng đến vị trí vùng đô thị ngoại vi cách xa trung tâm Bangkok là:

     Hai cảng mới xây dựng với mục tiêu chia sẻ lợi ích với cảng Klong Tooey ở trung tâm Bangkok được đặt ở rất xa thủ đô.
     Đầu cơ đất ở những vùng giáp ranh thủ đô đem lại rủi ro và nhiều trở ngại.
     Một số khu vực gần Bangkok hơn (tỉnh Samut Prakarn nằm giữa Bangkok và ESB) nhưng điều kiện đầu tư không thuận lợi, khả năng cạnh tranh không rõ ràng, tình hình chính trị, xã hội ở địa phương không ổn định và
     Các tập đoàn lớn thường thích đầu tư vào những vùng đất rộng thường có ở các vùng xa trung tâm.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...