Luận Văn Công nghiệp hóa, hiện đại hóa rút ngắn những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Lời tựa
    Phần thứ nhất: Những vấn đề lý luận về CNH
    Chương I: Thời đại phát triển cổ điển và CNH
    - I. Dẫn luận.
    - II. Phát triển và CNH
    - III. Tất yếu của cách mạng công nghiệp
    - IV. Tiền đề của cách mạng công nghiệp và CNH
    - V. Bản chất và quy luật kinh tế của phát triển và của CNH
    - VI. Quá trình và nội dung của CNH
    - VII. CNH và thời đại phát triển cổ điển
    Chương II: Thời đại phát triển hiện đại. Hiện đại hóa, chuyển nền kinh tế từ kinh tế chậm phát triển thành kinh tế phát triển hiện đại
    - I. Tiến trình phát triển hiện đại
    - II. Quy luật phát triển mới đối với các nước đang phát triển trong thời đại phát triển hiện đại
    - III. Vượt qua cái bẫy của sự phát triển – mô thức phát triển hiện đại của các nước đang phát triển
    Chương III: Rút ngắn quá trình CNH, HĐH, rút ngắn sự phát triển
    - I. Vấn đề rút ngắn quá trình CNH, HĐH và rút ngắn quá trình phát triển hiện đại
    - II. Thực chất và tính quy luật của rút ngắn quá trình CNH, HĐH, rút ngắn quá trình phát triển hiện đại
    - III. Những cơ sở và điều kiện của sự rút ngắn
    Phần thứ hai: CNH và sự phát triển của thế giới. Những bài học lịch sử
    Chương IV: Rút ngắn sự phát triển trong thời đại phát triển cổ điển
    - I. Những nét đặc thù của việc đẩy nhanh quá trình CNH trong thời đại phát triển cổ điển
    - II. Mô hình CNH Nhật Bản trong thời đại phát triển cổ điển
    Chương V: Sự thần kỳ Đông Á. Những bài học của quá trình HĐH chuyển nền kinh tế chậm phát triển thành kinh tế phát triển hiện đại
    - I. Bối cảnh phát triển và những vấn đề đặt ra đối với nước đi sau trong điều kiện phát triển hiện đại của nền kinh tế toàn cầu
    - II. Thực chất của sự thần kỳ
    - III. Những bài học
    Chương VI: Sự phát triển của Trung Quốc. Quy luật phát triển mới trong thời đại phát triển hiện đại đạt tới độ chín muồi
    - I. Tiến trình kinh tế xã hội của Trung Quốc trong lịch sử
    - II. Sự phát triển không thành công của Trung Quốc thời kỳ sau khi thành lập Nhà nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa tới trước cải cách – mở cửa
    - III. Cải cách – mở cửa. Quy luật phát triển mới của Trung Quốc trong điều kiện phát triển hiện đại
    - IV. Thành tựu và những nét đặc trưng của quy luật phát triển của Trung Quốc
    - V. Những vấn đề đặt ra trong quá trình đi tới nền kinh tế phát triển hiện đại. Con đường tiếp tục phát triển của Trung Quốc
    Phần thứ ba:
    Chương VII: Vấn đề phát triển và CNH thế hệ thứ nhất ở Việt Nam
    - I. Vấn đề phát triển ở Việt Nam
    - II. Giải quyết vấn đề phát triển ở Việt Nam – CNH thế hệ thứ nhất
    Chương VIII: Phát triển kinh tế và CNH thế hệ thứ hai – CNH trong quá trình đổi mới kinh tế
    - I: Phát triển và đổi mới kinh tế
    - II: Định dạng CNH trong thời kỳ đổi mới vừa qua
    - III: Tiến trình phát triển kinh tế của Việt Nam: vấn đề cơ bản và tư duy phát triển hiện đại
    Kết luận
    Tài liệu tham khảo
    LỜI TỰA
    Trong tiến trình lịch sử của nhân loại đã diễn ra một sự chuyển biến quyết định: chuyển kinh tế từ kinh tế tiểu nông, sinh tồn, tự nhiên sang kinh tế thị trường – công nghiệp, xác lập tiến trình kinh tế phát triển. Thực chất đây là một cuộc cách mạng triệt để trong phương thức sản xuất, trong kết cấu kinh tế. Đó là quá trình chuyển từ kinh tế tự nhiên, tự túc tự cấp, sinh tồn sang kinh tế thị trường và quá trình cách mạng công nghiệp, chuyển từ công nghiệp tiểu thủ công sang đại công nghiệp cơ khí, đồng thời trên cơ sở đại công nghiệp cơ khí, cấu trúc lại toàn nền kinh tế theo nguyên lý đại công nghiệp, thành hệ thống công nghiệp. Có thể nói, đó là quá trình thị trường hóa và công nghiệp hóa nền kinh tế. Trong đó, thị trường hóa là xác lập hình thái và nền tảng kinh tế thị trường cho lực lượng sản xuất đại công nghiệp phát triển, còn CNH là cách mạng trong nội dung vật chất của quá trình sản xuất, là xác lập lực lượng sản xuất đại công nghiệp, và do vậy, xác lập tiến trình kinh tế thị trường – công nghiệp, phương thức sản xuất thị trường – công nghiệp, thời đại công nghiệp – thời đại kinh tế phát triển.
    Đương nhiên, tiến trình kinh tế thị trường – công nghiệp đã trở thành đối tượng cho kinh tế chính trị học phân tích. Kinh tế học cổ điển và đặc biệt K.Marx đã phân tích sâu sắc bước chuyển biến từ kinh tế tiểu nông sinh tồn, tự nhiên sang kinh tế thị trường – công nghiệp và bản thân phương thức sản xuất dựa trên kinh tế thị trường – công nghiệp, vạch ra quy luật kinh tế của tiến trình kinh tế thị trường – công nghiệp. Có thể nói, kinh tế chính trị học, và nói chung kinh tế học, là phản ánh lý luận tiến trình kinh tế thị trường – công nghiệp. Nhưng có một điểm lưu ý, lý luận về cách mạng công nghiệp, về CNH là một bộ phận của lý luận trong kinh tế chính trị học về bước chuyển từ kinh tế tiểu nông sinh tồn, tự nhiên sang kinh tế thị trường – công nghiệp. Tuy nhiên, cách mạng công nghiệp, hay CNH, với tính cách là nội dung vật chất của sự phát triển kinh tế cũng không trở thành một đối tượng tách riêng của kinh tế chính trị học. Trong kinh tế chính trị học, duy có K.Marx, trong khi phân tích sự hình thành, phát triển của phương thức sản xuất tư bản, đã dành ba chương trong bộ Tư Bản để phân tích về cách mạng công nghiệp dưới góc độ kinh tế, và nhờ vậy, làm sáng tỏ quy luật kinh tế của phương thức sản xuất tư bản. Mà cách mạng công nghiệp và CNH của thế hệ phát triển thứ nhất đã dần lùi vào lịch sử. Ở một ý nghĩa nhất định, nếu như nhân loại cùng lúc tiến hành cách mạng công nghiệp, thực hiện CNH nền kinh tế, thì ngày nay, khái niệm CNH đã từ lâu được đặt vào viện bảo tàng, bên cạnh “chiếc rìu bằng đá và chiếc xa quay sợi”. Nhưng khi nhân loại chưa CNH xong, thì tiến trình kinh tế thị trường – công nghiệp
    trong khi thúc đẩy kinh tế phát triển, nó đã lại dẫn tới những chuyển biến cách mạng trong phương thức sản xuất, trong kết cấu kinh tế và đưa kinh tế của nhân loại vượt qua thời đại công nghiệp và xác lập một thời đại mới, thời đại hậu công nghiệp, hay thời đại phát triển hiện đại. Trong điều kiện này, một bộ phận đáng kể của thế giới còn là các nền kinh tế kém phát triển, đang phát triển, tức các nền kinh tế đang chuyển sang kinh tế phát triển. Có thể nói, phát triển kinh tế, chuyển kinh tế từ kém phát triển thành phát triển là vấn đề cơ bản, làm thành cái trục quyết định trong tiến trình kinh tế của các nước đang phát triển. Một câu hỏi được đặt ra là, tiến trình phát triển hiện đại có bản chất và những quy luật kinh tế nào? Những quy luật của tiến trình phát triển hiện đại tác động đến quá trình chuyển kinh tế từ kém phát triển sang kinh tế phát triển của các nước đang phát triển ra sao, và sự tác động này đem lại những sự thay đổi về nền tảng, về điều kiện phát triển, cũng như cách thức, con đường mới trong việc thực hiện sự phát triển của các nước đang phát triển như thế nào? Trả lời những câu hỏi này có một ý nghĩa quyết định trong việc hiểu về CNH trong điều kiện phát triển hiện đại, đồng thời từ đây hiểu về HĐH cũng như toàn bộ quá trình thay đổi cách mạng trong nội dung vật chất của quá trình phát triển kinh tế, quá trình chuyển một nền kinh tế từ kém phát triển thành phát triển hiện đại. Toàn bộ những điều này làm thành nội dung của công trình nghiên cứu này.
    Thời đại thay đổi thì quy luật phát triển thay đổi, do đó, cách thức giải quyết vấn đề phát triển, tức nền tảng, mô thức, con đường phát triển thay đổi thích ứng. Điều này cho thấy, để nắm được sự thay đổi trong quy luật phát triển, do đó nắm được quy luật phát triển mới, việc phân tích hai thời đại phát triển, thời đại công nghiệp, thời đại phát triển cổ điển, và thời đại hậu công nghiệp, thời đại phát triển hiện đại, trở nên cần thiết. Việc phân tích này được tiến hành dưới hai góc độ, góc độ lô gíc – lý luận và góc độ lịch sử – thực tiễn. Vì thế, công trình nghiên cứu về CNH, HĐH này được mang tựa đề “CNH, HĐH rút ngắn – Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới”. Một điều cần phải làm sáng tỏ ở đây là vấn đề “rút ngắn”. Rút ngắn là cách nói thông tục để diễn tả một thực tế lịch sử về thời gian diễn ra CNH của các thế hệ CNH khác nhau được giảm đi đáng kể do bối cảnh và quy luật phát triển khác nhau đem lại. Trong điều kiện của thời đại phát triển hiện đại, sự phát triển của các nước đã được đặt trên một đường đua chung, bởi vậy, sự phát triển không chỉ là việc mỗi nước chuyển nền kinh tế của mình lên một trình độ cao hơn một cách bất kỳ và tách biệt, mà được đặt vào một sự rượt đuổi một cách quyết liệt về trình độ phát triển. Nếu chậm chạp, sự phát triển của đất nước sẽ bị đặt ra ngoài cuộc chơi chung và đặt vào thế tụt hậu, và bị lạc hậu hóa. Trong điều kiện phát triển hiện đại, tốc độ và trình độ phát triển là vấn đề cốt tử của sự phát triển. Đến lượt mình, điều này đã đặt vấn đề rút ngắn sự phát triển, mà thực chất là thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển, bắt kịp trình độ phát triển hiện đại trong một khoảng thời gian ngắn nhất thành một sự sống còn. Rút ngắn sự phát triển trở thành yêu cầu nội tại của sự phát triển của một nước đang phát triển trong điều kiện phát triển hiện đại. Như vậy, công trình này là nhằm làm sáng tỏ quy luật phát triển mới trong điều kiện của thời đại phát triển hiện đại, rốt cuộc là khắc họa nét đặc trưng, tiêu biểu của quy luật phát triển mới, quy luật phát triển hiện đại của một nước đang phát triển là phát triển rút ngắn.
    Việt Nam đang thực hiện một cuộc đổi mới kinh tế, chuyển kinh tế sang kinh tế thị trường với khuôn mẫu hiện đại và hội nhập nền kinh tế vào tiến trình phát triển hiện đại của nền kinh tế toàn cầu, thực chất là nhằm bắt kịp vào tiến trình phát triển hiện đại và thực hiện một sự phát triển nhảy vọt, rút ngắn. Đổi mới kinh tế là một sự thay đổi hợp quy luật. Công trình nghiên cứu này cũng dành một phần phân tích sự đổi mới và thực hiện sự phát triển của Việt Nam trong thời kỳ đổi mới vừa qua, xem sự phát triển đó diễn ra thích hợp như thế nào với quy luật phát triển hiện đại và để thực hiện được sự phát triển hiện đại rút ngắn, thích ứng với tiến trình phát triển hiện đại, đồng hành cùng thời đại thì cần phải tiếp tục đổi mới như thế nào?
    Như vậy, công trình nghiên cứu này là thuộc lĩnh vực nghiên cứu lý luận cơ bản. Nó đề cập tới vấn đề cơ bản của kinh tế Việt Nam mang tính phức tạp và với một nội dung có tầm bao quát lớn, vì vậy, có một độ dày lớn, mặc dù khi trình bày, tác giả đã cố gắng theo một lô gíc nhất quán và chỉ nêu những nét chính mà thôi.
    Đây là công trình nghiên cứu thuộc chương trình nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước KX02: “CNH, HĐH theo định hướng XHCN” giai đoạn 2001 – 2005, do Hội đồng lý luận Trung Ương và Bộ Khoa học - Công nghệ chủ quản, đã được nghiệm thu đầu năm 2007. Tập thể tác giả và những người tham gia đề tài KX02-01 “CNH, HĐH rút ngắn – Những vấn đề lý luận và kinh nghiệm thế giới” rất cám ơn Hội đồng lý luận Trung Ương, Bộ Khoa học – Công nghệ, Ban chủ nhiệm chương trình KX02. Chúng tôi đặc biệt cảm ơn GS.TS. Đỗ Hoài Nam - chủ nhiệm chương trình; PGS.TS. Ngô Doãn Vịnh, GS. TS. Nguyễn Văn Thường – phó chủ nhiệm chương trình; và PGS. TS. Trần Đình Thiên - tổng thư ký chương trình KX02.

    Hà Nội, tháng12 năm 2007





    PHẦN THỨ NHẤT: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG NGHIỆP HÓA
    CHƯƠNG I: THỜI ĐẠI PHÁT TRIỂN CỔ ĐIỂN Và CÔNG NGHIỆP HÓA
    I. Dẫn luận
    Theo truyền thống, khi nghiên cứu một vấn đề nào đó, nhà nghiên cứu cần phải làm rõ những từ khóa trong chủ đề nghiên cứu. Theo truyền thống này, trong việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến CNH, điều bận tâm trước hết là đi tìm định nghĩa về CNH. Có được định nghĩa đúng, ta đã có được khái niệm về CNH, do đó, có được một công cụ tư duy cần thiết để nghiên cứu các vấn đề về CNH. Những cách thức tiến hành này gặp phải một vấn đề nan giải: người nghiên cứu sẽ đứng trước vô vàn định nghĩa khác nhau về CNH.
    Cách mạng công nghiệp diễn ra đầu tiên ở Anh vào khoảng giữa thế kỷ XVIII, cho tới nay đã được gần 300 năm. Tuy nhiên khái niệm về CNH vẫn còn chưa có sự nhất trí cao và luôn được bàn tới. Thứ nhất, CNH là một quá trình cách mạng căn bản trong phương thức sản xuất và kết cấu kinh tế, vì vậy, có một nội hàm sâu sắc và một ngoại diên phong phú. Từ đây, xuất hiện nhiều định nghĩa khác nhau về công nghiệp hóa. Tùy góc độ nghiên cứu khác nhau, người ta có thể đưa ra một quan niệm về CNH nhất định. Cứ như vậy, vô số định nghĩa về CNH đã được hình thành. Tính chất nhiều vẻ khác nhau của quan niệm về CNH này đã đưa người ta vào một khu rừng không có lối đi. Rốt cuộc, tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) qua nhiều cuộc tranh luận đã đưa ra một định nghĩa mang tính quy ước về CNH: “Công nghiệp hóa là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để sản xuất ra các phương tiện sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp độ tăng trưởng cao trong nền kinh tế và đảm bảo sự tiến bộ kinh tế và xã hội”. Đây là một định nghĩa gồm khá đầy đủ những thành tố của một tiến trình phát triển của một nền kinh tế công nghiệp, hay của bản thân tiến trình công nghiệp. Tuy nhiên, định nghĩa này lại không phản ánh được bản chất kinh tế của CNH, cũng như tính lịch sử của CNH trong việc làm thay đổi cách mạng trong phương thức sản xuất, trong kết cấu của nền kinh tế – xã hội. Bởi vì, tiến trình công nghiệp luôn là tiến trình phát triển kinh tế, trong đó diễn ra sự tập trung các nguồn lực cho thay đổi trong cơ cấu nền sản xuất, trong công nghệ và nhằm tăng trưởng cao, các định nghĩa đều nhấn mạnh đến sự thăng tiến của công nghiệp, đến thay đổi cơ cấu kinh tế và thay đổi trong công nghệ, hơn nữa, nhấn mạnh vị trí then chốt, chủ đạo của công nghiệp trong cấu trúc kinh tế và công nghệ trong phương thức sản xuất. Ngay định nghĩa của UNIDO đã đưa vào định nghĩa phạm trù phát triển, tuy nhiên, điều quyết định của CNH chính là cách mạng trong phương thức sản xuất và xác lập một thời đại kinh tế, thời đại kinh tế phát triển, thì các định nghĩa đã ít chú ý tới. Thứ hai, CNH đã diễn ra trong hai thời đại khác nhau, thời đại phát triển cổ điển và thời đại phát triển hiện đại. Giữa hai thời đại này là một sự khác nhau về chất trong trình độ phát triển, bởi vậy, giữa CNH của thời đại phát triển cổ điển và thời phát triển hiện đại không chỉ khác nhau về trình độ đạt được, về quá trình, về mô thức, mà còn là sự khác nhau về hệ thống. Đó là hai chỉnh thể của hai cái đặc thù. Xuất phát từ hai cái chỉnh thể của hai cái đặc thù đã có nhiều cách nhìn khác nhau. Sự khác nhau đó là ở chỗ, tùy vào chỗ nhấn mạnh ở nội dung quyết định của công nghiệp hóa, ở yếu tố quyết định trong kết cấu kinh tế, ở con đường, bước đi mà xây dựng định nghĩa. Điều khó khăn nhất là, người ta không thể đưa ra một quan niệm ngắn gọn dưới dạng một định nghĩa về CNH, lại có thể thâu tóm được hai thời đại CNH với hai chỉnh thể khác biệt quá lớn. Những định nghĩa về CNH của thời cổ điển không còn phù hợp với định nghĩa CNH của thời hiện đại. Ngay những định nghĩa CNH theo mô thức này lại không phù hợp với một mô thức CNH khác. Thứ ba, CNH là một chỉnh thể của tiến trình phát triển kinh tế, tiến trình trong đó CNH là nội dung vật chất của một sự thay đổi căn bản mang tính cách mạng trong phương thức sản xuất, trong kết cấu kinh tế, xác lập nên thời đại phát triển kinh tế. Các định nghĩa về CNH dựa chủ yếu trên nền nhận thức của sự tiến triển trong công nghiệp, quy CNH về sự thay đổi trong kết cấu ngành sản xuất và trong kỹ thuật, trong công nghệ sản xuất. Cách nhìn này nặng về lực lượng sản xuất, và về bản thân sản xuất, tức các hoạt động cụ thể trong khâu sản xuất ra của cải hiện vật của nền sản xuất. Nó thiếu đi hình thái xã hội của sản xuất, và các khâu khác của toàn bộ quá trình tái sản xuất của nền sản xuất xã hội. Đây là định nghĩa về CNH có nguồn gốc của tư duy hiện vật, duy ý chí, phiến diện đối với quá trình CNH. Trong hệ kinh tế thị trường, bỏ qua hình thái xã hội của sản xuất tất yếu dẫn tới chỗ xem xét CNH là một quá trình thăng tiến về mặt lực lượng sản xuất và từ đây nảy sinh những định nghĩa về CNH thiếu đi nội dung và hình thái kinh tế. Đương nhiên, thiếu hình thái và nội dung kinh tế, CNH thiếu đi chính đời sống kinh tế của mình. Những chiến lược và chính sách CNH xuất phát từ những quan niệm về CNH như vậy chỉ còn là một mớ những mong muốn chủ quan và là sự sắp đặt mang tính mệnh lệnh, chỉ huy. Thứ tư, CNH không những là một phạm trù lịch sử, với ý nghĩa nó là một khâu trong chuỗi tiến hóa của kinh tế, mà bản thân nó có một quá trình lịch sử diễn ra rất dài với hai cấp độ, cấp độ cổ điển và cấp độ hiện đại. Chính tính chất khác biệt diễn ra CNH trong lịch sử, xét theo trục thời gian và trục không gian, đã đem lại sự tiến hóa trong quan niệm về CNH. Vả lại, cách mạng công nghiệp biến nước Anh thành nước công nghiệp đầu tiên trên thế giới thực chất là quá trình CNH, song khi đó, người ta không dùng khái niệm CNH để chỉ quá trình cách mạng công nghiệp biến nền kinh tế nước Anh thành nền kinh tế công nghiệp, mà dùng khái niệm cách mạng công nghiệp để chỉ quá trình đó. Chỉ sau 100 năm, một loạt nước thuộc thế hệ thứ hai dùng thành tựu của cách mạng công nghiệp mà thế giới tạo ra, cải biến nền kinh tế của mình thành nền kinh tế công nghiệp, lúc đó mới phát sinh ra khái niệm CNH thay cho khái niệm cách mạng công nghiệp.
    Như vậy, một mặt, là một quá trình chuyển biến sâu sắc có tính chất cách mạng trong phương thức sản xuất, trong kết cấu kinh tế, làm thành bước ngoặt lịch sử trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội của nhân loại, CNH có nội hàm bao quát rộng lớn. Mặt khác, đó là một phạm trù lịch sử, có đời sống tiến hóa và biến đổi sâu sắc, thích ứng với những thời đại phát triển khác nhau. Vì vậy, khó có một định nghĩa ngắn gọn nào thâu tóm được một quá trình với những tính chất phức tạp như thế. Điều quan trọng hơn, CNH với tính cách là đối tượng nghiên cứu ở đây, không phải là những khía cạnh khác nhau của CNH, mà là lý luận về CNH hóa, hay phản ánh về mặt lý luận của CNH. Điều này hàm nghĩa, CNH ở đây được xem xét ở tổng thế, ở hệ thống để tìm ra bản chất kinh tế, lô gic nội tại và quy luật kinh tế của CNH, đồng thời thấy được ý nghĩa lịch sử của CNH trong tiến trình phát triển kinh tế – xã hội của nhân loại. Đương nhiên, chỉ sau khi nắm được bản chất kinh tế, lô gic nội tại và quy luật kinh tế của CNH, cũng như ý nghĩa lịch sử của CNH trong tiến trình kinh tế – xã hội của nhân loại, ta mới có được một ý niệm đầy đủ về CNH. Nói khác đi, ở đây, định nghĩa hay khái niệm CNH không phải là điểm xuất phát của nghiên cứu về CNH, mà trái lại, là kết quả của một nghiên cứu tổng thể về CNH.
    Sản xuất xã hội luôn là một quá trình hai mặt, mặt hình thái xã hội và mặt nội dung vật chất, hay xét về phương thức sản xuất thì đó là sự thống nhất của quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Sự thống nhất này được biểu hiện ở phạm trù kinh tế và kinh tế học lấy sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất, giữa mặt hình thái xã hội và nội dung vật chất của quá trình sản xuất xã hội làm đối tượng nghiên cứu của mình. Nó xét xem trong một trạng thái khan hiếm nhất định các nguồn lực, người ta làm thế nào để đạt được một lượng của cải lớn nhất, nhờ đó có được mức thỏa dụng lớn nhất, hay tìm ra quy luật kinh tế chi phối việc sản xuất, lưu thông và phân phối của cải trong một trạng thái khan hiếm nhất định về các nguồn lực. Điều này hàm nghĩa, kinh tế học không nghiên cứu tách rời giữa mặt hình thái xã hội và nội dung vật chất của sản xuất xã hội. Nếu khảo sát từng mặt, thì mặt đó luôn được đặt trong mối quan hệ hữu cơ với mặt kia, để rốt cuộc, làm rõ những tất yếu kinh tế, những quy luật kinh tế trong sự thay đổi của những yếu tố, những mặt hợp thành phương thức sản xuất, hay toàn bộ quá trình sản xuất xã hội.
    CNH là một cuộc cách mạng trong nội dung vật chất của nền sản xuất xã hội, hay của phương thức sản xuất. Đây là luận đề xuất phát của việc nghiên cứu về CNH. Luận đề này nhấn mạnh, việc nghiên cứu CNH là nghiên cứu về mặt kinh tế, hay trong sự thống nhất giữa sự thay đổi nội dung vật chất với hình thái xã hội, hình thái kinh tế của CNH, hay hình thái kinh tế của sự thay đổi trong nội dung vật chất của nền sản xuất xã hội.
    Mô hình kinh tế XHCN Xô viết là mô hình kinh tế hiện vật và được vận động trong một thể chế được xác lập bởi những giáo điều xuất phát từ những quan điểm chủ quan, duy ý chí về một CNXH phi kinh tế. Xét cho cùng, CNXH Xô viết không phải là một hệ kinh tế tự thân, mang tính chất là một tiến trình lịch sử, tự nhiên, tự điều chỉnh, tự vạch đường đi theo những lô gic nội tại và quy luật khách quan. Những quan hệ kinh tế ta thấy trong mô hình CNXH Xô viết thực ra chỉ là những thể chế, những quan hệ pháp lý áp đặt vào nền sản xuất xã hội, và như vậy những thể chế không có nội dung kinh tế không phải là cấu trúc kinh tế nội tại của lực lượng sản xuất, do vậy, nền sản xuất xã hội đã không có những quan hệ kinh tế tất yếu, khách quan cần thiết cho lực lượng sản xuất phát triển. Ở đây, thực ra là một sự lắp ghép chủ quan, gượng ép giữa những thể chế, những quan hệ pháp lý và những lực lượng sản xuất. Trong bối cảnh CNH với tính cách là sự thay đổi trong nội dung vật chất của nền sản xuất xã hội, không có những quan hệ kinh tế làm thành hình thái kinh tế - xã hội tất yếu của mình, CNH đã trở thành đối tượng trong kinh tế chính trị học mô hình Xô viết khi CNH tách rời khỏi hình thái kinh tế xã hội thích ứng với nó, hay CNH không có đời sống kinh tế của mình.
    Do tách rời với hình thái kinh tế xã hội, CNH chỉ được xem xét như quá trình phát triển lực lượng sản xuất, quá trình xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, là quá trình xác lập cơ cấu sản xuất theo những tỷ lệ dựa trên cơ sở ưu tiên cho một ngành công nghiệp nào đó, xét thấy là quan trọng, quyết định. Đặt ra ngoài hình thái kinh tế, CNH được xem xét là một quá trình tự thân của sự thăng tiến của lực lượng sản xuất, một quá trình thiếu đời sống kinh tế. Nó chỉ có đời sống thể chế, pháp lý và hướng tới những mục tiêu chính trị: hình thành nền tảng vật chất kỹ thuật của CNXH.
    Như vậy, trong kinh tế hiện vật và trong các quan hệ thể chế, pháp lý, CNH đã đi trệch khỏi cái tất yếu và quy luật kinh tế. Đến lượt mình, nghiên cứu về CNH thiếu đi nội dung kinh tế và thay vào đó là những nghiên cứu mang tính tổ chức – kỹ thuật. Có thể nói, mô hình CNXH Xô viết đã quy định tính chất tách rời siêu hình trong nghiên cứu hình thái xã hội và nghiên cứu nội dung vật chất của CNH, do đó, nghiên cứu CNH đã thiếu đi nội dung kinh tế của nó. Nghiên cứu như vậy đã không thể vạch ra trên những cơ sở quan hệ kinh tế và cơ chế kinh tế nào CNH đã được diễn ra và nó được thúc đẩy bởi những quy luật kinh tế nào.
    Điều tệ hại hơn, việc nghiên cứu tách rời, phiến diện như vậy đã dẫn tới một hệ quả nghiêm trọng trong tư duy: biến phương tiện thành mục tiêu. CNH là sự thay đổi trong nội dung vật chất của nền sản xuất xã hội trong quan hệ với việc đạt tới mục tiêu tăng sức sản xuất và tăng hiệu quả của nền kinh tế, và rốt cuộc, đưa nền kinh tế – xã hội đạt tới sự phát triển, giàu có và phồn vinh. Nhưng trong tư duy tách rời giữa hình thái kinh tế và nội dung vật chất của CNH, đã khiến cho CNH trở thành mục đích mà xã hội hướng tới. Vì giáo điều của CNXH Xô Viết coi CNH là nền đại công nghiệp, vì thế để có CNXH, người ta phải bằng mọi cách, mọi giá để tạo ra nền đại công nghiệp. Nhưng trong thực tế, người ta có thể đạt tới một nền đại công nghiệp, song đó là nền đại công nghiệp lạc hậu, không phù hợp với quy luật kinh tế, do đó kém hiệu quả, rốt cục sụp đổ.
    Như vậy, nghiên cứu CNH ở góc độ lý luận, hay phân tích về mặt lý luận của CNH là nghiên cứu:
    a, Bản chất và quy luật kinh tế của CNH.
    Tức nghiên cứu khía cạnh kinh tế của CNH, nghiên cứu CNH trong mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất trong thể thống nhất của chúng là phương thức sản xuất, nghiên cứu sự tương tác giữa hình thái kinh tế xã hội và nội dung vật chất của quá trình sản xuất xã hội, trong đó diễn ra quá trình CNH.
    b, Nghiên cứu CNH trong quá trình phát triển kinh tế, và CNH với tính cách là sự thay đổi nội dung vật chất trong quá trình xác lập nền đại công nghiệp phát triển. Ta biết rằng, trong tiến trình kinh tế – xã hội của nhân loại đã diễn ra một bước ngoặt lịch sử: chuyển kinh tế từ kinh tế kém phát triển thành kinh tế phát triển. Quá trình chuyển kinh tế từ kinh tế kém phát triển thành kinh tế phát triển là quá trình phát triển kinh tế. Bước chuyển cách mạng từ kinh tế kém phát triển sang kinh tế phát triển được đặc trưng bởi CNH. CNH là sự thay đổi căn bản trong nội dung vật chất của nền sản xuất xã hội, xác lập nội dung vật chất của kinh tế phát triển là hệ thống đại công nghiệp, kết cấu đại công nghiệp. Với nội dung vật chất công nghiệp, CNH đã làm cho phát triển thành một tất yếu kinh tế, và do vậy, CNH đã vạch ra tiến trình phát triển, thời đại kinh tế phát triển. Điều này hàm nghĩa, để hiểu được CNH, thì cần tiếp cận CNH từ khía cạnh phát triển, xem CNH là quá trình thay đổi nội dung vật chất của quá trình phát triển kinh tế. Trong quá trình này, CNH diễn ra theo các quy luật kinh tế, và ngược lại, CNH đem lại nét đặc thù của quy luật kinh tế ở bước chuyển cách mạng từ kinh tế kém phát triển thành kinh tế phát triển.
    c, Ở ý nghĩa tổng quát, nghiên cứu về mặt lý luận của CNH là nghiên cứu CNH với tính cách là một cuộc cách mạng triệt để trong phương thức sản xuất và trong kết cấu kinh tế, xác lập một phương thức sản xuất mới, một kết cấu kinh tế mới, phương thức sản xuất công nghiệp và kết cấu công nghiệp, và với chỉnh thể công nghiệp, CNH đã vạch ra thời đại công nghiệp, thời đại kinh tế phát triển.
    Từ ba điều trên ta thấy, CNH là sự chuyển biến vạch thời đại, xác lập thời đại kinh tế phát triển, thời đại công nghiệp, vì thế, tiếp cận kinh tế, tiếp cận phát triển và tiếp cận kinh tế chính trị trở nên cần thiết đối với nghiên cứu về mặt lý luận của CNH.
    II. Phát triển và CNH
    1. Phát triển kinh tế
    Phạm trù trung tâm và tổng quát diễn tả sự chuyển biến cách mạng trong tiến trình kinh tế – xã hội của nhân loại là phạm trù phát triển kinh tế. CNH với tính cách là sự thay đổi triệt để trong nội dung vật chất của nền kinh tế trong bước chuyển từ kinh tế kém phát triển thành kinh tế phát triển. Nói khác đi, phát triển kinh tế và CNH có quan hệ nội tại, biện chứng với nhau. Bởi vậy, để hiểu bản chất kinh tế và những quy luật kinh tế của CNH, việc làm rõ phát triển kinh tế với những quá trình và quy luật thích ứng của nó trở nên cần thiết.
    Phát triển vốn là phạm trù của triết học, chỉ sự chuyển biến về chất trong sự vận động không ngừng của thế giới. Ở đây, phát triển kinh tế là một khái niệm đặc thù của lĩnh vực kinh tế, dùng để chỉ bước chuyển cách mạng từ kinh tế tiểu nông, kém phát triển thành kinh tế công nghiệp phát triển.
    Trong tiến trình lịch sử, ở thế kỷ XVIII, nước Anh, nước đầu tiên thực hiện cách mạng công nghiệp thành công và xác lập nền đại công nghiệp, vạch ra thời đại kinh tế phát triển. Sau nước Anh, Mỹ cùng với một số nước Tây Âu và Nhật Bản ở Châu Á đã tiến hành CNH thành công. Tuy nhiên, khi đó và cả sau này, người ta không gọi những nước đã thực hiện CNH và trở thành nước công nghiệp, và kinh tế công nghiệp trong đó là kinh tế phát triển, là những nước phát triển và kinh tế phát triển mà gọi là nước công nghiệp và nền kinh tế công nghiệp. Đối với những nước chưa thực hiện CNH, không được gọi là nước kém phát triển, hay chậm phát triển, mà đơn giản gọi là nước nông nghiệp, lạc hậu.
    Chỉ tới giữa thế kỷ XX, tức vào thập kỷ 50 của thế kỷ XX trở đi, tức sau hơn 200 năm, thời đại công nghiệp được xác lập, tiến trình công nghiệp đã trải qua nhiều bước chuyển, đạt được những thành tựu vượt bậc và các nền kinh tế công nghiệp phát triển đã trở thành một lực lượng kinh tế to lớn chi phối tiến trình kinh tế của nhân loại, đồng thời một bộ phận lớn của thế giới cho tới lúc đó vẫn chưa thực hiện CNH, tức hãy còn là những nước nông nghiệp lạc hậu đã hình thành bối cảnh để chia thế giới thành hai, một thế giới của những nước CNH với nền kinh tế công nghiệp tiến tiến và một thế giới những nước chưa CNH, do đó, là những nước nông nghiệp lạc hậu. Đây chính là bối cảnh phát sinh cách nhìn phát triển trong việc phân chia thế giới thành hai thế giới, thế giới của các nước phát triển và thế giới của các nước kém phát triển, chậm phát triển.
    Trong bối cảnh này, kinh tế học phát triển bắt đầu hình thành. Kinh tế học phát triển gọi kinh tế của thế giới các nước nông nghiệp lạc hậu là kinh tế kém phát triển, chậm phát triển hay chưa phát triển và kinh tế của các nước công nghiệp tiên tiến là kinh tế phát triển, còn đối tượng của nó là các quy luật kinh tế và chính sách kinh tế trong việc chuyển một nền kinh tế kém phát triển thành kinh tế phát triển.
    Chúng ta cần xem xét một chút về cách phân chia các thời đại trong tiến trình lịch sử của nhân loại, trong tiến trình kinh tế xã hội của nhân loại. Đương nhiên có nhiều cách chia khác nhau, nhưng đại thể có ba cách phân chia khác nhau.
    · K.Marx. Xuất phát từ nguyên lý duy vật lịch sử xem sự vận động, phát triển của xã hội là sự thay thế nhau của phương thức sản xuất, của các hình thái kinh tế – xã hội, K.Marx chia xã hội thành năm phương thức sản xuất, năm hình thái kinh tế – xã hội hay năm thời đại: Nguyên thủy; Chiếm hữu nô lệ; Phong kiến; Tư bản chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa. Ông viết: “Về đại thể có thể coi các phương thức sản xuất Châu Á cổ đại, phong kiến và Tư sản hiện đại là những thời đại tiến triển dần dần của hình thái kinh tế – xã hội”.
    · A. Toffler. Căn cứ vào quá trình tiến triển của văn minh, A.Toffler chia tiến trình xã hội của nhân loại thành ba làn sóng: Làn sóng nông nghiệp, làn sóng công nghiệp và làn sóng hậu công nghiệp.
    · Kinh tế học phát triển. Căn cứ vào trình độ phát triển kinh tế, kinh tế học phát triển chia thế giới loài người thành hai thế giới, thế giới của các nước phát triển và thế giới của các nước kém phát triển (chưa hay chậm phát triển).
    Ba cách chia trên đều có một điểm chung là vạch ra các thời đại kinh tế xã hội và định dạng trình độ phát triển kinh tế – xã hội của mỗi thời đại.
    Cách chia của K.Marx nhấn mạnh sự khác biệt của các thời đại ở phương thức sản xuất, và nhất là sự khác biệt về hình thái kinh tế – xã hội. Cách phân chia này cho ta thấy được cái trục và cái chỉnh thể trong lô gic nội tại của sự tiến hóa của nhân loại. Nắm được lô gic tiến hóa này, ta có thể thấy được những nấc thang một xã hội phải trải qua, thấy được trình độ một xã hội đã đạt được cũng như bản chất kinh tế – xã hội của mỗi nấc thang và xu thế mà xã hội sẽ tiến triển tới.
    Cách phân chia tiến trình lịch sử của nhân loại của kinh tế học phát triển lại có một ý nghĩa khác. Nếu đo lường về mặt kinh tế, kinh tế học thấy rằng, các nước nông nghiệp lạc hậu là những nước thu nhập thấp. Vào thập kỷ 50 – 60 của thế kỷ XX, các nước kém phát triển là những nước có thu nhập quốc nội trên đầu người (GDP/người) là dưới 1000 USD, còn những nước có thu nhập trên đầu người trên 1000 USD là những nước đã trải qua CNH, là nước phát triển. Có thể xem, thu nhập 1000 USD/người là mốc kinh tế phân chia nước kém phát triển và nước phát triển. Đương nhiên, 1000 USD/người không phải là một cái mốc tuyệt đối. Nó có thể di động trong một khoảng nhất định và nó được xác định bởi mức thu nhập bình quân/người của toàn thế giới, vì thế, khi sự phát triển chung của thế giới tăng lên do sự phát triển của các nước công nghiệp phát triển thúc đẩy và sự phát triển của các nước kém phát triển, đang phát triển tiến hành và thực hiện sự phát triển tạo nên.
    Việc kinh tế học phát triển chia tiến trình kinh tế của nhân loại thành hai thời đại không có nghĩa kinh tế học phát triển bác bỏ cách phân chia của K.Marx, vì trọng tâm của kinh tế học là bước chuyển từ kinh tế kém phát triển thành kinh tế phát triển. Trước thời đại công nghiệp phát triển, có thể nhân loại đã trải qua các phương thức và hình thái kinh tế – xã hội nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ và phong kiến, song về mặt kinh tế thì đó đều là xã hội dựa trên kinh tế nông nghiệp, nghèo, thu nhập thấp. Sự phân chia thế giới thành kém phát triển và phát triển có một ý nghĩa cách mạng cả về mặt nhận thức lý luận và về hành động thực tiễn là trong điều kiện một phần đáng kể nhân loại đã chuyển thành các nền kinh tế công nghiệp phát triển, phần còn lại là những nước chưa phát triển có thể và cần phải phát triển? Và bằng con đường và cách thức nào thực hiện được sự phát triển? Câu hỏi được đặt ra như vậy, thực sự đã trở nên bức xúc và trở thành đối tượng của một ngành kinh tế học.
    Ở một ý nghĩa nhất định, kinh tế học phát triển là một hình thái của kinh tế chính trị học, vì nó phản ánh về mặt lý luận của bước chuyển căn bản từ phương thức sản xuất dựa trên phương thức sản xuất tiểu nông sang phương thức sản xuất dựa trên phương thức sản xuất đại công nghiệp. Nhưng, đó còn là kinh tế học nghiên cứu những quy luật kinh tế trong quá trình chuyển kinh tế kém phát triển sang phát triển và những chiến lược, chính sách thúc đẩy quá trình chuyển biến cách mạng đó. Nói khác đi, đó là kinh tế học thực chứng và kinh tế học chuẩn tắc về sự phát triển. Nói khác đi, kinh tế học phát triển là sự vận dụng các nguyên lý của kinh tế chính trị học và kinh tế học vào việc giải quyết vấn đề chuyển nền kinh tế từ kinh tế nông nghiệp kém phát triển thành kinh tế công nghiệp phát triển.
    Cách phân chia tiến trình kinh tế – xã hội của loài người của A.Toffler khác với cách phân chia của kinh tế học phát triển ở việc chia thời đại phát triển thành hai thời đại: thời đại công nghiệp và thời đại hậu công nghiệp, còn thời đại kém phát triển thì được gọi là thời đại nông nghiệp. Sở dĩ A.Toffler chia như vậy, vì ông không nhấn mạnh, hay đúng ra là không lấy bước chuyển từ thời đại kinh tế chậm phát triển sang thời đại kinh tế phát triển, trong khi ông lại nhằm tách bạch ba thời đại, hay ba làn sóng văn minh mà nhân loại đã và đang trải qua. Trong khi nhân loại vẫn còn đang nhìn thời đại của mình là thời đại công nghiệp, thì bằng việc đưa ra những nét đặc trưng mới, vượt ra ngoài khung khổ của tiến trình công nghiệp và cho rằng, nhân loại bằng cách mạng khoa học – công nghệ và những chuyển biến trong kết cấu kinh tế, trong phương thức sản xuất do cách mạng khoa học – công nghệ tạo ra, đã đẩy xã hội sang một thời đại mới, thời đại hậu công nghiệp, là một đóng góp độc đáo của A.Toffler.
    Thực sự thì việc chỉ ra cái mốc mới, cái mốc vạch ra một thời đại mới với chỉnh thể không còn là công nghiệp, hậu công nghiệp hay khác với công nghiệp, có một ý nghĩa phương pháp luận trong tư duy. Từ nay, nhân loại được đặt trong một quá trình hình thành và phát triển một chỉnh thể kinh tế mới, với những quy luật phát triển mới và do đó, quy định một phương thức phát triển mới. Việc phát triển của nhân loại vượt ra ngoài khung khổ của chỉnh thể công nghiệp và chuyển sang một tiến trình mới, đòi hỏi phải nhìn nhận lại thời đại công nghiệp và quyết định hơn, cần phải xem xét, nghiên cứu về quy luật phát triển mới, do đó, đòi hỏi phải thay đổi căn bản trong phương thức phát triển cho thích hợp với thời đại phát triển mới.
    Do mục đích tìm hiểu và phản ánh tiến trình phát triển kinh tế – xã hội khác nhau nên đã có những cách phân chia tiến trình kinh tế – xã hội của nhân loại khác nhau, song ba cách phân chia đó lại bổ sung cho nhau, giúp ta hiểu rõ tính đa dạng và sâu sắc trong sự vận động, tiến hóa và phát triển kinh tế của nhân loại. Bất kỳ sự phát triển nào cũng là sự thay đổi trong kết cấu và trong phương thức sản xuất, đồng thời đổi mới phương thức sản xuất, lại xác lập nên một hình thái kinh tế – xã hội thích ứng, bởi vậy, để hiểu sự phát triển của nhân loại, không thể không nắm lấy cách phân chia của K.Marx, và phân tích sự phát triển từ góc độ kết cấu kinh tế và phương thức sản xuất. Nhưng dù tiến trình phát triển có khác nhau theo hình thái kinh tế – xã hội, thì nếu theo tiêu chí văn minh, thì rốt cuộc nhân loại đã và đang trải qua ba nấc thang văn mình lớn: văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp và văn minh hậu công nghiệp. Cũng chính trình độ văn minh là cái chi phối đến kết cấu và phương thức sản xuất, cũng như cách thức tổ chức của một xã hội. Hai hình thái kinh tế đầu tiên, chiếm hữu nô lệ và phong kiến có sự khác nhau trong kết cấu kinh tế, trong phương thức sản xuất và hình thái kinh tế – xã hội, nhưng chúng đều có chung một trình độ văn minh: văn minh nông nghiệp. Theo Toffler, thời đại Nguyên thủy là thời đại xác lập xã hội loài người. Chỉ khi con người phát minh và xác lập được ngành sản xuất nông nghiệp, xã hội loài người mới thực sự bước vào tiến trình văn minh của mình. Thời đại công nghiệp và thời đại hậu công nghiệp, đều là thời đại phát triển nhưng là hai cấp độ phát triển khác nhau về chất với hai chỉnh thể hoàn toàn khác nhau. Sự phân chia này có ý nghĩa phương pháp cho tư duy về phát triển nói chung, nhưng đối với việc chuyển một nền kinh tế kém phát triển sang phát triển trong thời đại phát triển hậu công nghiệp còn có một ý nghĩa đặc biệt: Liệu người ta có thể và cần phải chuyển xã hội tới thời đại phát triển hậu công nghiệp hay chỉ dừng ở chỗ chuyển xã hội sang xã hội công nghiệp? Tư duy của A.Toffler không chỉ dừng ở phương pháp luận tư duy, mà còn có ý nghĩa thực tiễn to lớn trong việc định ra mục tiêu và chiến lược cho sự phát triển phù hợp với thời đại phát triển mới, do đó, tránh được việc lặp lại con đường và cách thức phát triển cũ đã bị sự phát triển của nhân loại vượt qua và làm cho nó trở nên lỗi thời.
    Kinh tế học phát triển đưa ra phạm trù phát triển kinh tế cũng như những quy luật kinh tế và chiến lược kinh tế cho việc chuyển một nước kém phát triển thành phát triển là có ý nghĩa đối với các nước đang phát triển. Việc vạch ra hai thời đại kém phát triển và phát triển, đồng thời ở giữa hai thời đại là một quá trình chuyển biến cách mạng với một nội dung và quy luật thích ứng cho thấy, các nước kém phát triển có thể và cần phải vượt qua trạng thái kém phát triển bằng một loạt những chuyển biến có tính cách mạng trong phương thức sản xuất, trong kết cấu kinh tế. Việc nêu lên những giá trị và những chuẩn mực của kinh tế kém phát triển và phát triển, cũng như những tất yếu, những quy luật kinh tế trong đó, đặc biệt những quy luật kinh tế của việc chuyển kinh tế kém phát triển thành kinh tế phát triển, cho người ta thấy người ta đang ở đâu trong tiến trình kinh tế – xã hội và cần phải làm gì và làm như thế nào để vượt qua trạng thái kém phát triển kinh tế và cuối cùng đạt tới sự phát triển kinh tế.
    Như vậy, cách tiếp cận phương thức sản xuất, cách tiếp cận văn minh và cách tiếp cận phát triển cho phép người ta hiểu thấu không chỉ toàn bộ sự phát triển nói chung, mà điều quyết định là hiểu được trong tiến trình kinh tế có một bước chuyển quyết định mà các nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu, kém phát triển phải thực hiện, đó là chuyển kinh tế – xã hội của mình từ kinh tế nông nghiệp thành kinh tế phát triển.
    Tới đây ta thấy, phát triển kinh tế là một phạm trù lịch sử. Phát triển kinh tế đó là khái niệm dùng để chỉ một khâu trong chuỗi tiến hóa kinh tế, tại đó kinh tế nông nghiệp chuyển thành kinh tế công nghiệp phát triển. Nói khác đi, phát triển kinh tế với tính cách là một phạm trù lịch sử , là quá trình chuyển nền kinh tế với chỉnh thể nông nghiệp thành kinh tế phát triển với chỉnh thể công nghiệp.
    III. Tất yếu của cách mạng công nghiệp
    1. Kinh tế kém phát triển. Làn sóng nông nghiệp
    Kinh tế phát triển là kinh tế có mức thu nhập tính trên đầu người, mà ta đã thấy, được xác định ở thập kỷ 50 – 60 của thế kỷ XX là 1000 USD. Đương nhiên, nếu chỉ với chỉ tiêu thu nhập 1000 USD/người, người ta chưa hiểu thực sự về kinh tế phát triển. Ngoài thu nhập cao, 1000 USD/người giả định một mức độ thỏa dụng những nhu cầu cơ bản của người ta như thế nào, cũng như một mức độ phồn vinh tương ứng. Thực ra, đằng sau thu nhập 1000 USD/người là một trình độ đạt được của sức sản xuất, do đó, của kết cấu kinh tế và của phương thức sản xuất. Nói khác đi, rốt cuộc thì thu nhập cao của sự phồn vinh có cơ sở của mình trong trình độ đạt được của phương thức sản xuất, của kết cấu kinh tế và sự phát triển kinh tế. Chuyển kinh tế từ kinh tế nông nghiệp kém phát triển sang kinh tế phát triển được thực hiện bởi một cuộc cách mạng làm thay đổi căn bản kết cấu nông nghiệp và phương thức sản xuất tiểu nông và thay vào đó một phương thức sản xuất, một kết cấu kinh tế trên đó sự phát triển kinh tế được thực hiện.
    Để hiểu bản chất và quy luật kinh tế của kinh tế phát triển và của CNH, điều quyết định trước hết là hiểu được sự phát triển bắt đầu từ đâu và trên những tiền đề và cơ sở nào? Để hiểu được điều này cần phải phân tích làn sóng nông nghiệp, làn sóng của kinh tế kém phát triển. Làn sóng nông nghiệp xét ở góc độ kinh tế là làn sóng với kết cấu kinh tế nông nghiệp và phương thức sản xuất, hay kinh tế tiểu nông. Phân tích kinh tế kém phát triển là xoay quanh việc phân tích kinh tế tiểu nông và kết cấu nông nghiệp của nền sản xuất xã hội.
    Trong tác phẩm “Ngày mười tám tháng sương mù của Louis Bonaparte”, K.Marx có viết: “Tiểu nông là một khối sản quần chúng đông đảo mà tất cả các thành viên đều sống trong một hoàn cảnh như nhau, nhưng lại không nằm trong những mối quan hệ nhiều mặt đối với nhau. Phương thức sản xuất của họ không làm cho họ liên hệ với nhau mà lại làm cho họ cô lập với nhau. Tình trạng cô lập đó lại còn bị những phương tiện giao thông tồi tệ ở Pháp và cảnh nghèo khổ của nông dân làm cho trầm trọng thêm. Trường hoạt động sản xuất của hộ, một miếng đất nhỏ bé, không cho phép áp dụng một sự phân công lao động nào cả, một sự ứng dụng khoa học nào cả, do đó, cũng không cho phép có một sự phát triển nhiều màu nhiều vẻ nào cả, một sự phân biệt tài năng nào cả, cũng không cho phép có một sự phong phú nào về các quan hệ xã hội. Mỗi gia đình nông dân gần như tự cấp tự túc hoàn toàn, sản xuất ra đại bộ phận những cái mình tiêu dùng và do đó kiém tư liệu sinh hoạt cho mình bằng cách trao đổi với thiên nhiên nhiều hơn là giao tiếp với xã hội. Mảnh đất cỏn con, người nông dân và gia đình anh ta; cạnh đó lại một mảnh đất cỏn con khác, một nông dân khác và một gia đình khác. Một nhúm những đơn vị ấy họp thành một làng và một nhúm làng họp thành một tỉnh. Như vậy, cái khối to lớn dân tộc Pháp được hình thành bằng cách giản đơn cộng những đại lượng cùng tên lại, đại khái cũng giống như một cái bao tải đựng những củ khoai tây hình thành một bao tải khoai tây vậy”[SUP][62,515][/SUP]. Từ quan niệm của K.Marx trên về kinh tế tiểu nông, ta có thể thấy phương thức sản xuất tiểu nông với những đặc trưng sau:
    Một là, phương thức sản xuất tiểu nông được tiến hành với công cụ cầm tay và kinh nghiệm cổ truyền. Kỹ thuật thủ công, đó là kỹ thuật đặc trưng của phương thức sản xuất tiểu nông. Hai là, thích ứng với kỹ thuật thủ công, lao động thủ công cá thể là đặc trưng về mặt tổ chức lao động của kinh tế tiểu nông. Ba là, nếu xét về hàm sản xuất thì kinh tế tiểu nông có định dạng về hàm sản xuất như sau:
    F(x) = Y (Ruộng đất, Lao động) ; Viết tắt: F(x) = Y (R x L).
    Trong hàm sản xuất này, công cụ thủ công, do đó kỹ thuật thủ công là nhân tố nhỏ bé trong việc quyết định đến sức sản xuất, vì vậy, sức sản xuất được quyết định bởi sức lực của bản thân người lao động và lực lượng sản xuất của nền sản xuất xã hội về cơ bản và chủ yếu là bản thân người lao động. Bốn là, kinh tế tiểu nông được tổ chức trong hình thức phổ biến là hộ gia đình. Từ đặc điểm này, kinh tế tiểu nông là kinh tế sản xuất nhỏ, kinh tế gia trưởng.
    Từ bốn đặc trưng trên của phương thức sản xuất tiểu nông, phương thức sản xuất đặc trưng của kinh tế kém phát triển có những đặc điểm sau:
    a, Sức sản xuất nhỏ bé, năng suất lao động thấp. Một mặt, với công cụ thủ công (cầm tay), sức sản xuất của lao động phụ thuộc vào sức lực của cá nhân người lao động và giới hạn của các khí quan của con người trong việc sử dụng công cụ, vì vậy, năng suất của lao động là rất thấp và có giới hạn chật hẹp bởi sức lao động của từng cá nhân người lao động. Mặt khác, lao động cá thể trong khung khổ nhỏ hẹp của quy mô hộ gia đình, phân công trong quá trình lao động trực tiếp không có cơ sở để hình thành và phát triển. Nói khác đi, trong kinh tế kém phát triển, phương thức phân công và hiệp tác lao động chưa xác lập thành phương thức sản xuất cơ bản; phương thức sản xuất cơ bản là phương thức sản xuất dựa trên lao động cá thể, riêng lẻ. Điều này hàm nghĩa, trong phương thức sản xuất tiểu nông, về cơ bản chưa có cơ sở để hình thành và phát triển sức sản xuất xã hội của lao động.
    b, Sức sản xuất của kinh tế kém phát triển về cơ bản là nằm trong khung của vạch tất yếu, hay sức sản xuất về cơ bản chưa tạo ra thặng dư. Đến lượt mình, sức sản xuất nằm dưới vạch tất yếu chưa sản xuất ra thặng dư, do vậy, tích lũy, chuyển thặng dư thành các nguồn lực sản xuất phụ thêm, thành những lực lượng sản xuất mới, chưa thành phương thức cơ bản của hoạt động kinh tế và tái sản xuất mở rộng chưa thành một tất yếu. Kinh tế kém phát triển, do vậy, là kinh tế sinh tồn, kinh tế nghèo, kinh tế tái sản xuất giản đơn và tăng trưởng kinh tế chưa thành một quy luật. Kinh tế kém phát triển, vì thế, mang tính chất trì trệ. Có thể nói, sinh tồn là quy luật chi phối trong kinh tế.
    c, Do sức sản xuất nhỏ bé, năng suất thấp, vì thế, để sinh tồn, mọi nguồn lực (lao động và ruộng đất) được tập trung cơ bản cho việc duy trì sự sinh tồn, tức cho sản xuất nông nghiệp, là hoạt động sản xuất, hay ngành sản xuất ra các tư liệu tiêu dùng thiết yếu cho sự sinh tồn, là lương thực, thực phẩm. Điều này hàm nghĩa:
    i, Hoạt động sản xuất và nói chung hoạt động kinh tế của nền kinh tế kém phát triển về cơ bản là quá trình diễn ra giữa người lao động và tự nhiên. Ở đây, giữa người lao động và tự nhiên chưa có một bộ máy cơ khí, là bộ máy được cấu trúc bởi những lực lượng sản xuất do lao động tạo ra và tích lũy lại. Hàm sản xuất F(R x L) của kinh tế tiểu nông cho thấy, một mặt, nhân tố và nguồn lực hợp thành quá trình sản xuất là mang tính chất tự nhiên, và mặt khác, tính chất lệ thuộc của sản xuất, và nói chung của hoạt động kinh tế vào tự nhiên. Thực chất của tính chất lệ thuộc vào tự nhiên là lệ thuộc vào ruộng đất. Hàm sản xuất của kinh tế tiểu nông cho ta thấy ruộng đất là nhân tố kinh tế nền tảng, bao trùm toàn bộ phương thức sản xuất họat động kinh tế, do vậy, quan hệ sản xuất trong kinh tế tiểu nông là xoay quanh quan hệ ruộng đất và quy định bản chất kinh tế của kinh tế kém phát triển. Đến lượt mình, tính chất quyết định của quan hệ ruộng đất, quyết định tính chất của phương thức sản xuất, mà trước hết là đối với lao động, nhân tố cơ bản thứ hai tạo lập thành quá trình sản xuất của kinh tế tiểu nông. Ở đây, quy luật sinh tồn và tính chất quyết định của quan hệ ruộng đất đối với phương thức sản xuất đã quy định mối quan hệ giữa ruộng đất và lao động, quan hệ lệ thuộc của lao động và ruộng đất. Sự bện chặt của lao động vào ruộng đất hay sự lệ thuộc của lao động vào ruộng đất là nền tảng xác lập phương thức sản xuất tiểu nông, cách thức kết hợp tư liệu sản xuất và lao động của kinh tế tiểu nông và quy định tính chất tự nhiên của kinh tế tiểu nông.
    ii, Phân công lao động xã hội kém phát triển. Do mọi nguồn lực phải tập trung cho sản xuất nông nghiệp, vì vậy, các hoạt động công nghiệp và nói chung các hoạt động phi nông nghiệp không thể phát triển. Bởi vậy, công nghiệp và các hoạt động phi nông nghiệp luôn luôn là sản xuất phụ thuộc vào nông nghiệp. Đương nhiên, trong thời đại kinh tế kém phát triển, do sức sản xuất nhỏ bé và năng suất lao động thấp, vì thế công nghiệp cũng như các hoạt động phi nông nghiệp là những hoạt động diễn ra trong kinh tế tiểu nông và là ngành phụ thuộc của nông nghiệp. Nhưng điều này không có nghĩa là chưa diễn ra quá trình tách công nghiệp ra khỏi nông nghiệp ở những mức độ khác nhau. Điều quan trọng là quá trình tách công nghiệp ra khỏi nông nghiệp đó chưa tạo ra một cuộc cách mạng trong phân công lao động. Điều này hàm nghĩa, nông nghiệp là
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...