Tài liệu Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta thực trạng và giải pháp

Thảo luận trong 'Nông - Lâm - Ngư' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta thực trạng và giải pháp

    Lời giới thiệu
    Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta, nhằm thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập cho dân cư nông thôn tạo tiền đề để giải quyết hàng loạt các vấn đề chính trị - xă hội của đất nước, đưa nông thôn nước ta tiến lên văn minh hiện đại.
    Đại hội Đảng lần thứ VIII đă xác định phải đặc biệt coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn Trong những năm gần đây nhờ có đổi mới nông nghiệp nước ta đă đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy vậy nông nghiệp hiện nay vẫn đang đứng trước những thách thức to lớn, có nhiều vấn đề về sản xuất và đời sống của nông dân đang nổi lên gay gắt. Do vậy đẩy nhanh tiến độ thực hiện chủ trương này của Đảng và Nhà nước là nhu cầu rất cấp thiết.
    Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một quá tŕnh lâu dài, cần được tiến hành theo cách tuần tự, không nóng vội, không thể tuỳ tiện. Quá tŕnh này được thực hiện không nhằm mục đích tự thân, mà phục vụ các mục tiêu kinh tế xă hội của nông thôn cũng như của cả nước. V́ vậy nếu ta không nh́n nhận và phân tích một cách sâu sắc quá tŕnh chuyển đổi và phát triển của nền nông nghiệp hiện nay th́ sẽ khó có thể t́m ra những giải pháp vi mô cũng như vĩ mô đúng và phát huy được hiệu quả trong quá tŕnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá nền nông nghiệp của đất nước.
    Xuất phát từ thực tế cấp bách đó, với vốn kiến thức đă được truyền thụ, cùng với sự hướng dẫn nhiệt t́nh của thầy, cô giáo. Tôi mạnh dạn nghiên cứu đề tài Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở nước ta thực trạng và giải pháp đề tài nghiên cứu nội dung sau:
    [TABLE]
    [TR]
    [TD]Phần
    [/TD]
    [TD]I. Một số vấn đề lư luận chung về CNH - HĐH nông nghiệp.
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]
    [/TD]
    [TD]II. Thực trạng của quá tŕnh CNH - HĐH nông nghiệp Việt Nam hiện nay.
    [/TD]
    [/TR]
    [TR]
    [TD]
    [/TD]
    [TD]III. Giải pháp phát triển nông nghiệp Việt Nam trong quá tŕnh CNH - HĐH.
    [/TD]
    [/TR]
    [/TABLE]
    Với kiến thức đă được học tập và thời gian tiếp xúc với thực tế Ưt, nên tôi nhận thấy việc nghiên cứu đề tài này sẽ không tránh khỏi những mặt hạn chế. Vậy kính mong thầy cô giáo cho nhận xét, đóng góp ư kiến cho đề tài của tôi được tốt hơn.
    I. Một số vấn đề lư luận chung về CNH - HĐH nông nghiệp.
    1. Những nội dung chủ yếu của CNH - HĐH nông nghiệp.
    Công nghiệp hoá nông nghiệp có nghĩa là đưa máy móc, thiết bị, ứng dụng những tiến bộ khoa học công nghệ và các phương pháp sản xuất , các h́nh thức tổ chức kiểu công nghiệp. Tiến bộ khoa học công nghệ nông nghiệp đă thúc đẩy mạnh mẽ sản xuất nông nghiệp phát triển và cũng là động lực cơ bản, là nhân tố quyết định trong quá tŕnh công nghiệp hoá nông nghiệp. Nội dung chủ yếu của tiến bộ khoa học công nghệ trong nông nghiệp là các phương thức tiến hành như thuỷ lợi hoá, cơ giới hoá, điện khí hoá, hoá học hoá và sinh học hoá.
    Thuỷ lợi hoá là ǵ? nó chính là quá tŕnh thực hiện tổng thể các biện pháp sử dụng các nguồn nước trên mặt đất và dưới mặt đất để phục vụ sản xuất và sinh hoạt trong nông nghiệp, nông thôn đồng thời hạn chế các tác hại của nước gây ra cho sản xuất và đời sống.
    Cơ giới hoá nông nghiệp là quá tŕnh thay thế công cụ thô sơ bằng công cụ cơ giới, lao động thủ công bằng lao động cơ giới, thay thế phương pháp sản xuất lạc hậu bằng phương pháp khoa học.
    Điện khí hoá nông nghiệp là quá tŕnh sử dụng năng lượng điện và sản xuất nông nghiệp và mọi hoạt động phục vụ đời sống nông thôn.
    Hoá học hoá trong nông nghiệp là quá tŕnh sử dụng các phương tiện hoá học do công nghiệp hoá châts sản xuất vào sản xuất nông nghiệp. Hoá học hoá có tác dụng rất quan trọng trong việc nâng cao năng suất cây trồng, năng suất sản phẩm gia súc và đưa lại hiệu quả kinh tế cao.
    Sinh học hoá nông nghiệp là quá tŕnh áp dụng những thành tựu mới về khoa học sinh vật và khoa học sinh thái vào nông nghiệp, tiến hành cách mạng về giống, cách mạng về cơ cấu cây trồng, cơ cấu vật nuôi và cách mạng về quy tŕnh kỹ thuật nông nghiệp.
    Như vậy công nghiệp hoá nông nghiệp c̣n bao hàm cả việc tạo sự gắn bó chặt chẽ giữa phương thức sản xuất công nghiệp với sản xuất nông nghiệp nhằm khai thác triệt để lợi thế của nông nghiệp nâng cao hàm lượng chế biến sản phẩm của nông nghiệp để tăng giá trị của chúng, mở rộng thị trường cho chóng.
    C̣n hiện đại hoá nông nghiệp là quá tŕnh không ngừng nâng cao tŕnh độ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, tŕnh độ tổ chức sản xuất và quản lư sản xuất nông nghiệp. Đây là quá tŕnh cần được thực hiện một cách liên tục v́ luôn có những tiến bộ kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng trong sản xuất.
    2.Tính tất yếu khách quan phải thực hiện CNH - HĐH nông nghiệp.
    a. V́ sao phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp?
    Xuất phát từ nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp phổ biến sản xuất nhỏ, lạc hậu và đang ở tŕnh độ thấp, đó là cơ sở vật chất, kỹ thuật c̣n lạc hậu, lao động xă hội đại bộ phận tập trung trong nông nghiệp, sản xuất nông nghiệp c̣n mang nặng tính tự cấp, tự túc và thu nhập của nông dân thấ, đời sống mọi mặt của họ c̣n hết sức khó khăn. trong khi đó đến nay nhiều nước trên thế giới đă có nền nông nghiệp phát triển ở tŕnh độ cao, mọi hoạt động sản xuất nông nghiệp đă được cơ giới hoá, điện khí hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá. Nhờ đó năng suất ruộng đất, năng xuất lao động của họ đạt rất cao, tạo sự phân công lao động sâu sắc trong nông nghiệp và toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
    Mặt khác do yêu cầu về phát triển kinh tế xă hội của đất nước, nhu cầu về nâng cao đời sống con người đó là xă hội càng phát triển, đời sống con người càng được nâng cao th́ nhu cầu của con người về lương thực và thực phẩm cũng ngày càng tăng cả về số lượng, chất lượng và chủng loại. Như vậy chỉ có một nền nông nghiệp phát triển ở tŕnh độ cao mới hy vọng đáp ứng được nhu cầu tăng lên thường xuyên đó.
    Xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, trước hết là quá tŕnh quốc tế hoá, khu vực hoá các quan hệ kinh tế thế giới, các hoạt động sản xuất thương mại, trao đổi thông tin khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ . buộc chúng ta phải đẩy nhanh việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp để chúng ta có thể tận dụng vốn, khoa học, kỹ thuật kinh nghiệm quản lư nước ngoài vào trong hoàn cảnh thực tiễn vận dụng vào quá tŕnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nước ta nhằm để tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, rơi vào t́nh trạng băi rác công nghiệp của thế giới, dẫn đến cuộc sống đói nghèo, lệ thuộc kinh tế nước ngoài .v.v.
    Như vậy đứng trước những yêu cầu đổi mới đang diễn ra trước mắt ta cần khẳng định trong bối cảnh quốc tế hiện nay, công nghiệp hoá, hiện đại hoá là xu hướng phát triển chung của thế giới. tŕnh độ công nghiệp hoá hiện đại hoá biểu hiện tŕnh độ phát triển của xă hội. V́ vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nói riêng là con đường đúng đắn mà đảng ta đă lựa chọn trong quá tŕnh đi lên chủ nghĩa xă hội của ḿnh, nó là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xă hội, nó là con đường tất yếu để đưa nước ta thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu và nguy cơ tụt hậu xă hơn so với các nước trong khu vực.
    b. Cần làm ǵ để thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp?
    Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là một quá tŕnh lâu dài cần được tiến hành theo cách tuần tự, không thể nóng vội, không thể tuỳ tiện. Để thực hiện được quá tŕnh này cần có và thực hiện tốt những chương tŕnh mục tiêu, giải quyết từng vấn đề có liên quan sau:
    Trước tiên, đó là những chương tŕnh với mục tiêu cụ thể là thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá một cách có trọng điểm ở một số vùng. Tinh thần chung là việc thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở mỗi vùng trước hết phải do dân cư các vùng đó chủ động thực hiện theo hướng của nhà nước. Nhà nước có thể hỗ trợ nhưng không làm thay, và cũng chỉ hỗ trợ trên cơ sở năng lực nội sinh của mỗi vùng. Các địa phương, dù là vùng trọng điểm, cũng không thể trông chờ vào nguồn tài trợ của nhà nước, không thể cố gắng xin của nhà nước càng nhiều càng tốt như trước kia. Hơn nữa, các khoản hỗ trợ của nhà nước cũng phải được tính toán, quyết định trên cơ sở hiệu quả cụ thể, rơ ràng cuối cùng của mỗi dự án. Như vậy, các dự án thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá không thể không gắn với lợi Ưch của các chủ thể có liên quan tới việc thực hiện nó. Tuy nhiên công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp không chỉ là sự nghiệp của riêng dân cư nông thôn và nhà nước, mà mỗi ngành đều có trách nhiệm nhận thức rơ sự cần thiết của nó để có các chương tŕnh hành động cụ thể, thích hợp. Họ cần nhận thức rơ rằng tham gia thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp không phải là để giúp nông thôn phát triển mà cũng chính là v́ lợi Ưch của họ. Chương tŕnh phục vụ công nghiệp hoá nông nghiệp của mỗi ngành, mỗi đơn vị phải phù hợp với khả năng của ngành, đơn vị, phải phục vụ những nhu cầu cụ thể của nông nghiệp và nông thôn, đồng thời cố gắng có những địa chỉ áp dụng thu hưởng cụ thể. Chẳng hạn, các viện nghiên cứu, thiết kế và sản xuất đưa ra các thiết bị phục vụ nông nghiệp (làm đất, chăm sóc hoa màu, thu hoạch, bảo quản, chế biến nông sản). Các cơ quan nghiên cứu, chuyển giao công nghệ có thể nghiên cứu, ứng dụng, giới thiệu, chuyển giao các công nghệ mới, kể cả công nghệ sinh học, cây con, công nghệ chế biến, bảo quản nông sản . và thực hiện các dịch vụ kỹ thuật - công nghệ phục vụ nông thôn. Các cơ sở đào tạo các cấp cũng có thể tham gia vào quá tŕnh này vừa bằng cách đào tạo nguồn nhân lực thích hợp cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp vừa hoạt động như một cơ sở tư vấn, phổ biến kiến thức về các lĩnh vực có liên quan tới công nghiệp hoá, hiện đại hoá thuộc chuyên ngành của ḿnh .
    Nhà nước, với chức năng điều phối các hoạt động của toàn xă hội, cần tăng cường hơn nữa các hoạt động riêng rẽ của các ngành, các địa phương, biến các chương tŕnh mục tiêu riêng rẽ thành chương tŕnh mục tiêu liên ngành, đồng bộ, hướng tới những kết quả thiết thựuc cuối cùng, có khả năng giải quyết vấn đề một cách bền vững, tránh sự mất cân đối không cần thiết. Chẳng hạn trong thời gian qua, khi đưa máy móc vào nông nghiệp, vấn đề tạo việc làm chưa được giải quyết tốt, dẫn đến khó khăn trong việc duy tŕ các hoạt động đó. Hoặc khi đă tạm giải quyết được vấn đề việc làm, các loại máy móc lại chưa được thiết kế một cách thích hợp; trong khi ruộng đất bị chia ngày càng nhỏ, các loại máy nông nghiệp (làm đất, bơm nước) lại chưa đựơc thiết kế thích hợp. Tương tự, khi vận động nông dân trồng các loại cây chuyên canh, công nghiệp chế biến lại chưa đựoc xây dựng kịp thời, dẫn đến sự thua thiệt hoặc kinh doanh kém hiệu quả (ví dụ các vùng trồng dưa, vải, mận . mà chúng ta đă thấy đề cập nhiều trên báo). Ngược lại, có nơi chủ động xây dựng trước các cơ sở chế biến th́ hoặc nguyên liệu không đủ, hoặc nguyên liệu không đồng nhất, hoặc không đáp ứng nhu cầu về chất lượng . làm chúng không hoạt động được.
    Nói tóm lại, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp là nhiệm vụ to lớn, cấp bách lâu dài và gian khó. Việc thực hiện nó đ̣i hỏi những nỗ lực chung của toàn xă hội. Sự nghiệp này đ̣i hỏi chúng ta phải có bước đi, biện pháp và chính sách hợp lư để thực hiện.
    II. Thực trạng của quá tŕnh CNH- HĐH nông nghiệp Việt Nam hiện nay
    1. Thực trạng về cơ giới hoá:
    Sau khi thực hiện giao đất cho hộ nông dân, hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. Họ tự bỏ vốn mua máy móc, phương tiện để phục vụ sản xuất của gia đ́nh hoặc làm dịch vụ trong các khâu làm đất, tưới nước, phun thuốc sâu, tuốt lúa. Hàng năm có khoảng 1,8 triệu ha đất được cơ giới hoá, c̣n các khâu phun thuốc sâu, tuốt lúa đă được cơ giới hoá phần lớn.
    Trong lĩnh vực vận chuyển những năm gần đây các phương tiện vận tải cơ giới, như xe công nông, các xe vận tải cỡ nhỏ thích hợp với hệ thống đường xá của Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ, nên khâu vận chuyển nông sản phẩm phần lớn được cơ giới hoá. Riêng khâu thu hoạch làm cơ chủ yếu vẫn dùng phương pháp thủ công.
    Theo báo cáo số liệu thống kê nông nghiệp, nông thôn Việt Nam 1995-1997. Đến năm 1997 cả nước có hơn 115. 487 máy kéo các loại sử dụng trong nông nghiệp với tổng công suất hơn 2 triệu CV, tăng gấp 1,5 lần so với năm 1985. đặc biệt máy kéo nhỏ thích hợp với quy mô hộ gia đ́nh tăng rất nhanh, từ 17880 cái với 19,60 ngh́n CV năm 1990 tăng lên 71208 cái với công suất 810027 CV năm 1995 và 83.289 cái với công suất hơn 863 ngh́n CV năm 1997, đặc biệt là ở Tây nguyên nơi sản xuất tập trung cây công nghiệp dài ngày như cà phê, cao su và là vùng c̣n nhiều tiềm năng về đất khai hoang phục hoá nên số máy nông nghiệp năm 1997 so với năm 1992 tăng 6,2 lần. ở đồng bằng Sông Cửu Long đến năm 1997 có gần 38 ngh́n máy kéo các loại, chủ yếu là máy kéo lớn, gấp gần 2 lần năm 1992. Các vùng khác, các loại máy công tác cũng tăng nhanh, nhất là máy bơm nước với năm 1994 là 537809 cái, đến năm 1997 tăng 583.159 cái. Theo số liệu thống kê năm 1997 th́ số lượng máy tuốt lúa là 190.680 cái, máy nghiền thức ăn gia súc là 20.741 cái, xe reo 914 cái .
    Nhờ có số lượng máy móc tăng nhanh nên nhiều công việc nặng nhọc trong nông nghiệp đă được cơ giới hoá. Tỷ lệ cơ giới hoá làm đất trong nông nghiệp từ 21% năm 1990 đă tăng lên 26% năm 1995 và khoảng 27% năm 1997, trong đó vùng đồng bằng sông Cửu Long 80%, nhiều tỉnh trên 80% như An giang, Đồng tháp.v.v .
    Công việc cơ giới hoá vận chuyển trong nông nghiệp cũng có nhiều khởi sắc. Trong nông thôn hiện nay có 22.000 ô tô các loại (không kể máy kéo và các loại xe công nông) trong đó có hơn 15.000 xe tải (90% là của hộ gia đ́nh nông dân) tăng gấp 2 lần năm 1990. Các khâu công việc khác như xay xát lúa gạo, chế biến thức ăn gia súc, cưa xẻ gỗ, cũng được từng bước cơ giới hoá cùng với sự phát triển của nguồn điện lực quốc gia. Tuy nhiên, khó khăn của cơ giới hoá nông nghiệp Việt Nam hiện nay là quy mô ruộng đất vốn nhỏ bé (nhất là ở miền Bắc và miền Trung) lại bị phân chia cho quá nhiều chủ ruộng, nên máy kéo, xe vận tải và máy nông nghiệp khó phát huy tác dụng, chi phí cao, hiệu quả thấp.
    Có thể nói, vấn đề cơ giới hoá nông nghiệp ở nước ta hiện nay vẫn đang trong t́nh trạng mâu thuẫn giữa yêu cầu của hiện đại hoá với lực lượng lao động dư thừa ở nông thôn. Nếu không sớm giải quyết được mâu thuẫn này th́ dù chủ trương đúng cũng khó đi vào cuộc sống, chỉ có chừng nào tạo được nhiều việc làm phi nông nghiệp trên địa bàn nông thôn, th́ cơ giới hoá nông nghiệp mới phát triển mạnh. V́ vậy công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam lúc này không chỉ đơn thuần là cơ giới hoá mà quan trọng hơn phải đẩy mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn để chuyển đổi cơ cấu lao động sang phi nông nghiệp, có như vậy mới tạo được môi trường và điều kiện để đưa máy và công nghệ tiên tiến vào sản xuất.
    2. Thực trạng về thuỷ lợi hoá:
    Nhận thức tầm quan trọng của công tác thuỷ lợi đối với sự phát triển của nông nghiệp, trong những năm qua, nhà nước và nhân dân ta đă đầu tư khá lớn cho việc xây dựng mới, hoàn thiện và nâng cấp hệ thống các công tŕnh thuỷ lợi.
    Tính đến 1/10/1996 cả nước đă có 20.644 công tŕnh thuỷ lợi lớn nhỏ trong đó có 20.502 công tŕnh thuỷ nông (6727 hồ, đập chứa nước, 5899 cống, 2363 trạm bơm điện, 671 trạm bơm dầu, 4.842 công tŕnh phụ thuộc, 162 trạm thuỷ điện kết hợp thuỷ nông) các công tŕnh này đă đảm bảo tưới tiêu cho 3 triệu ha diện tích đất canh tác (chiếm 53% tổng số) tiêu trên 2 triệu ha, ngăn mặn 0,7 triệu ha và chống lũ cho 2 triệu ha. So với những năm đầu 90 th́ số lượng công tŕnh và lượng tưới tiêu đă tăng lên đáng kể. So với các vùng trong cả nước th́ đồng bằng sông cửu Long là vùng có số lượng công tŕnh và năng lực tưới tiêu thuỷ lợi tăng nhanh nhất. Kể từ sau ngày giải phóng đến nay. Nhà nước đă đầu tư trên 1000 tỷ đồng cho các công tŕnh thuỷ lợi, chưa kể hàng trăm tỷ đồng của nông dân làm kênh mương nội đồng. Đến năm 1996, tonà vùng đă có 1185 công tŕnh thuỷ lợi trong đó có 163 trạm bơm điện và hệ thống kênh dẫn nước ngọt sông Tiền, sông Hậu để tưới nước cho các vùng lúa hàng hoá, phục vụ khai hoang tăng vụ, chuyển vụ và thâm canh. Riêng vùng Đồng Tháp Mười, chỉ tính từ năm 1987 đến 1996, vốn đầu tư cho thuỷ lợi của nhà nước và nhân dân đă lên tới 180,68 tỷ đồng đưa nước ngọt về để tăng diện tích 2 vụ từ 26806 ha năm lên 86400 ha, dùng nước ngọt để Đm phèn, đưa giống mới vào, năm 1996 sản xuất được 1,3 triệu tấn lúa và trở thành vùng lúa hàng hoá lớn nhất đồng bằng sông Cửu Long.
    ở Đông Nam Bộ vốn là vùng khô cằn thiếu nước ngọt trước đây, sau 22 năm giải phóng, nhà nước và nhân dân đă xây dựng được 103 công tŕnh thuỷ lợi trong đó có 486 công tŕnh độc lập công xuất tưới 200 ngàn ha, nhiều nhất là Tây Ninh, 175 ngàn ha nhờ hồ Dầu tiếng. Với diện tích mặt hồ 27000 ha. Chứa 1,6 tỷ m[SUP]3[/SUP] nước ngọt, cộng với tuyến kênh mới Tân Hưng có khả năng cung cấp đủ nước tưới cho 172 ha đất trồng trọt thuộc các tỉnh Tây Ninh, B́nh Dương, B́nh Phước, Long An, thành phố Hồ Chí Minh và cung cấp hàng triệu m[SUP]3[/SUP] nước ngọt cho công nghiệp chế biến nông sản.
    Các tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên bằng việc phát triển thuỷ điện nhỏ, chủ yếu là xây dựng các hồ, đập chứa nước kết hợp với các công tŕnh tự chảy đă giảm bớt đáng kể về khó khăn trong việc cung cấp nước cho sản xuất nông nghiệp và phục vụ đời sống, đồng bào các dân tộc miền núi trong mùa khô.
    Tuy nhiên sovới yêu cầu thâm canh, tăng vụ và đa dạng hoá cây trồng, vật nuôi th́ thực trạng thuỷ lợi hoá hiện nay ở nước ta c̣n nhiều bất cập. Chất lượng các công tŕnh thuỷ lợi c̣n thấp, khả năng tưới tiêu của thuỷ lợi mới đáp ứng được khoảng 50% yêu cầu về nước cho sản xuất nông nghiệp. Một số công tŕnh đă xuống cấp nghiêm trọng nhưng thiếu vốn để duy tŕ, bảo dưỡng, nên công xuất thực tế tưới tiêu chỉ đạt khoảng 30% so với thiết kế. Như vậy điều đặt ra cho chóng ta hiện nay là cần tiếp tục t́m ra những giải pháp để đầu tư, bổ sung, nâng cấp và xây dựng mới.
    3. Thực trạng về hoá học hoá:
    Cùng với cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá trong những năm qua ở nước ta quá tŕnh hoá học hoá sản xuất nông nghiệp cũng có nhiều khởi sắc: lượng phân bón và thuốc trừ sâu, diệt cỏ tăng lên, chủng loại đa dạng, cơ cấu được điều chỉnh phù hợp với nhu cầu sản xuất. Tuy lượng phân hoá học b́nh quân trên 1 ha c̣n ở mức thấp (100kg/ha) nhưng cơ cấu các loại NPK đă được điều chỉnh theo hướng giảm tỷ lệ đạm, tăng tỷ lệ lên và ka li để đáp ứng tốt hơn, nhu cầu sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Ngoài phân bón, một số hoá chất khác như thuốc diệt cỏ, thuốc trừ sâu, thuốc kích thích cây trồng và vật nuôi cũng khá đa dạng về chủng loại.
    Điều đáng mừng là quan hệ giữa giá lúa và giá phân bón đă thay đổi theo chiều hướng có lợi cho sản xuất nông nghiệp và nông dân, trước đây giá của 1kg phân đạm thường ứng với giá của 2 kg lúa, nay giảm xuống c̣n tỷ lệ 1 đến 1,3. Nh́n chung giá phân nhập khẩu cũng như giá phân sản xuất trong nước đều có xu hướng giảm.
     
Đang tải...