Chuyên Đề Con nuôi trong luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000

Thảo luận trong 'Khảo Cổ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Con nuôi trong luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000

    Lời nói đầu


    Gia đ́nh là tế bào, nền tảng vững chắc của xă hội. Chính từ nơi đây, nhân cách của mỗi con người được h́nh thành, nuôi dương và phát triển trong cái nôi của mái ấm gia đ́nh.Trong gia đ́nh cũng như trong xă hội, mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái là mối quan hệ mang tính chất thiêng liêng và cao quư nhất. Quan hệ đó không chỉ phát sinh dùa trên quan hệ huyết thống mà c̣n được phát sinh trên cơ sở chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ nuôi đối với con nuôi. Công ước của Liên Hợp Quốc về quyền trẻ em đă khẳng định:” Để phát triển đầy đủ và hài hoà nhân cách của ḿnh, trẻ em cần được trưởng thành trong môi trường gia đ́nh, trong bầu không khí hạnh phúc,yêu thương và thông cảm ”.Trẻ em có quyền được sống trong gia đ́nh, được cha mẹ nuôi dưỡng, chăm sóc và giáo dục. Không có sự chăm sóc, giáo dục nào tốt hơn sự chăm sóc, giáo dục của gia đ́nh. Tuy nhiên trong thực tế hiện nay, v́ nhiều nguyên nhân khác nhau mà có rất nhiều trẻ em không nhận được sự chăm sóc, giáo dục của gia đ́nh, đặc biệt là những trẻ em mồ côi cha, mẹ; trẻ em bị bỏ rơi mà không xác định được cha mẹ.Việc chăm sóc, giáo dục những trẻ em này là trách nhiệm của Nhà nước và toàn xă hội.Nhiều h́nh thức bảo trợ của xă hội đă ra đời như trại trẻ mồ côi, làng SOS nhưng sự chăm sóc và giáo dục có hiệu quả nhất đối với những trẻ em này là được nhận làm con nuôi.Việc nuôi con nuôi là một biện pháp pháp lư bảo đảm tốt nhất cho quyền được sống trong gia đ́nh của trẻ em, đồng thời đáp ứng được nhu cầu về tinh thần, ước muốn quyền được làm cha, mẹ của người nhận nuôi đối với trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
    Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
    Nuôi con nuôi là hiện tượng xă hội đă xuất hiện từ lâu trong lịch sử xă hội loài người. Đây là một chế định pháp lư quan trọng trong pháp luật về hôn nhân và gia đ́nh. Hiện nay, việc nhận nuôi con nuôi v́ mục đích nhân đạo luôn được nhà nước quan tâm, khuyến khích.Các văn bản quy phạm pháp luật quy định về điều chỉnh quan hệ nuôi con nuôi đă được ban hành.Tuy nhiên, các quy định của pháp luật nuôi con nuôi c̣n nhiều bất cập, nhiều quy định c̣n chưa rơ ràng, cụ thể, nhất là quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ nuôi con nuôi, nhiều khía cạnh của quan hệ nuôi con nuôi chưa có quy phạm điều chỉnh dẫn đến chưa giải quyết được những vấn đề phức tạp nảy sinh trong thực tế. Từ ư nghĩa về lư luận và thực tiễn trên, việc nghiên cứu đề tài: “Con nuôi trong luật Hôn nhân và Gia đ́nh Việt Nam năm 2000” là một yêu cầu cấp thiết, khách quan nhằm hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi với ư nghĩa là một biện pháp bảo đảm quyền được sống trong gia đ́nh của trẻ em.
    Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
    - Mục đích nghiên cứu của đề tài:
    Đề tài tập trung nghiên cứu, làm rơ các quy định của pháp luật Việt Nam về nuôi con nuôi, làm rơ những vấn đề c̣n hạn chế, chưa hoàn thiện của pháp luật nuôi con nuôi. So sánh, đánh giá ưu điểm của biện pháp nuôi con nuôi với các h́nh thức chăm sóc, giáo dục trẻ em khác.Trên cơ sở đó có những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật nuôi con nuôi, bảo đảm tốt hơn quyền được sống trong gia đ́nh của trẻ em.
    - Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài:
    Đề tài nghiên cứu một số vấn đề lư luận về pháp luật nuôi con nuôi, nghiên cứu, đánh giá t́nh h́nh nuôi con nuôi trong nước qua những năm gần đây, để thấy được những vấn đề c̣n tồn tại của pháp luật nuôi con nuôi.
    Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
    Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu việc nuôi con nuôi giữa cỏc công dân Việt Nam với nhau, thực hiện trên lănh thổ Việt Nam, không đề cập đến việc nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài và người được nhận nuôi là trẻ em.
    Phương pháp nhiên cứu
    Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên cơ sở đó, đề tài được nghiên cứu bằng cách kết hợp các phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê, để xem xét vấn đề được toàn diện và đạt hiệu quả cao.





    Chương 1
    MỘT SỐ VẤN ĐỀ LƯ LUẬN CHUNG VÀ PHÁP LUẬT NUÔI CON NUÔI

    I. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ NUÔI CON.
    1.1 Nuôi con nuôi là một quan hệ xă hội
    Nuôi con nuôi là một quan hệ xă hội đă có từ lâu trong lịch sử, quan hệ xă hội này xuất hiện là một tất yếu khách quan nhằm đáp ứng các nhu cầu tinh thần và vật chất của con người.Hiểu theo cách thông thường, nuôi con nuôi là một người hoặc cả hai người (là vợ chồng) nhận chăm sóc, nuôi dưỡng một đứa trẻ mà do hoàn cảnh nhất định không có sự chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ đẻ, gia đ́nh ruột thịt.Mối quan hệ được h́nh thành giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi là mối quan hệ cha mẹ và con. Quan hệ xă hội đặc biệt này được xă hội thừa nhận, có thể thay thế một phần hoặc toàn bộ quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi con nuôi được coi nh­ quan hệ giữa cha mẹ đẻ và con đẻ.
    Dưới góc độ xă hội, quan hệ nuôi con nuôi là quan hệ mang tính tự nguyện, xuất phát từ cả hai phía người nhận nuôi và người được nhận nuôi.Sự tự nguyện Êy có nhiều lư do khác nhau nhưng chủ yếu là do yếu tố t́nh cảm chi phối. Đó là người nuôi muốn nhận nuôi dưỡng, chăm sóc một đứa trẻ. Đem t́nh yêu thương của ḿnh tạo ra một mái Êm gia đ́nh cho những đứa trẻ có hoàn cảnh đặc biệt nhằm làm cho đứa trẻ có điều kiện phát triển đầy đủ về thể chất, tinh thần, và lớn hơn cả là ước muốn được xác lập mối quan hệ cha mẹ và con với người được nhận nuôi.Với tư cách là một quan hệ xă hội, quan hệ nuôi con nuôi không đ̣i hỏi những điều kiện chặt chẽ mà chủ yếu đáp ứng những nhu cầu, lợi Ưch của con người về vật chất như có thêm lao động, người thừa tự, có người chăm sóc khi tuổi già hoặc về mặt tinh thần như sự cảm thông, chia sẻ, ước muốn quyền được làm cha, mẹ.
    Như vậy,dưới góc độ xă hội, nuôi con nuôi có thể được hiểu là:”việc thiết lập quan hệ cha mẹ và con trên thực tế, giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi, làm phát sinh mối quan hệ gia đ́nh mới được xă hội thừa nhận, nhằm thoả măn những nhu cầu và lợi Ưch nhất định của các bên.
    1.2 Nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật.
    Dưới góc độ pháp lư, quan hệ nuôi con nuôi được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp luật.Việc nuôi con nuôi được công nhận bới cơ quan Nhà nước có thẩm quyền được thể hiện qua việc đăng kư nuôi con nuôi và trở thành một quan hệ pháp luật. Do đó, có thể hiểu quan hệ pháp luật nuôi con nuôi là “những quan hệ xă hội phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi được các quy phạm pháp luật điều chỉnh”.Giống như các quan hệ pháp luật khác, quan hệ pháp luật nuôi con nuôi có đầy đủ ba thành phần: chủ thể, khách thể, nội dung.
    - Chủ thể trong quan hệ nuôi con nuôi là bao gồm: người cho con làm con nuôi, người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi.Người cho con làm con nuôi có thể là cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ.Người nhận nuôi con nuôi có thể là người độc thân, hoặc hai người là vợ chồng hợp pháp. Người được nhận làm con nuôi là người dưới 15 tuổi hoặc là người trên 15 tuổi nếu thuộc các trường hợp đặc biệt được pháp luật quy định.
    - Khách thể của quan hệ nuôi con nuôi là những lợi Ưch mà các bên chủ thể hướng tới.Những lợi Ưch đó có thể là những lợi Ưch về tinh thần, hoặc vật chất, hoặc cả hai. Nội dung của quan hệ pháp luật nuôi con nuôi là quyền và nghĩa vụ pháp lư của chủ thể do pháp luật quy định cụ thể cho các chủ thể khi tham gia quan hệ nuôi con nuôi.
    Quan hệ nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật, nên nó có đầy đủ đặc điểm chung của các quan hệ pháp luật. Theo Đ44 BLDS 2005 th́ quyền đựơc nuôi con nuôi và quyền được nhận làm con nuôi là quyền nhân thân của mỗi người được pháp luật công nhận và bảo vệ. Tuy nhiên, quan hệ nuôi con nuôi là một quan hệ đặc thù nên pháp luật nuôi con nuôi cũng có những đặc điểm riêng:
    Quan hệ nuôi con nuôi không làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con giữa nguời nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi. Quan hệ cha mẹ và con không phát sinh trên cơ sở sinh học tự nhiên mà được xác lập trên cơ sở pháp lư. Bởi v́, nếu các bên có quan hệ sinh thành ra nhau th́ quan hệ đó sẽ trở thành quan hệ huyết thống trực hệ mà không c̣n là quan nuôi con nuôi. Do đó, giữa nguời nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi,về nguyên tắc không thể là cha mẹ và con hoặc ông bà và cháu, “ trường hợp người có quan hệ họ hàng là ông bà xin nhận cháu hoặc anh chị em xin nhận nhau làm con nuôi, th́ không giải quyết” (theo quy định tại điểm c, khoản 2, tiểu mục 1 Mục II thông tư số 08/2006/TT-BTP ).
    Không giống như quan hệ cha mẹ đẻ và con là quan hệ sinh học tự nhiên.Quan hệ nuôi con nuôi xác lập quan hệ cha mẹ và con trên cơ sở pháp lư. Do đó, trong quan hệ nuôi con nuôi không phải bất cứ ai cũng trở thành cha mẹ nuôi và con nuôi. Chỉ những người đáp ứng được những điều kiện nhất định của pháp luật mới trở thành cha mẹ nuôi và con nuôi.
    Quan hệ nuôi con nuôi là một quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đ́nh, mang đặc điểm của một quan hệ pháp luật hôn nhân và gia đ́nh là tồn tại một cách lâu dài, bền vững, không xác định thời hạn tồn tại của nó. Bởi v́, trong quan hệ này chỉ có thế xác định được thời điểm bắt đầu quan hệ là thời điểm đăng kư nhận nuôi con nuôi mà không thể xác định trước được thời điểm kết thúc của quan hệ đó. T́nh cảm giữa người nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi là bền vững, sâu sắc không khác ǵ quan hệ cha mẹ và con về huyết thống.
    1.3. Khái niệm chế định nuôi con nuôi
    Chế định pháp luật nuôi con nuôi có thể hiểu là “tổng hợp các quy phạm pháp luật cùng điều chỉnh các quan hệ xă hội phát sinh trong lĩnh vực nuôi con nuôi, cụ thể là điều chỉnh việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong quan hệ nuôicon nuôi”. Chế định pháp luật nuôi con nuôi thể hiện thái độ của Nhà nước trong lĩnh vực này nhắm đảm bảo quyền và lợi Ưch hợp pháp của các bên chủ thể, đặc biệt là bảo vệ quyền và lợi Ưch của trẻ em được nhận làm con nuôi, làm cho các quan hệ này phát triển phù hợp với lợi Ưch chung của toàn xă hội, đảm bảo được quyền của trẻ em.
    Chế định pháp luật nuôi con nuôi bao gồm các quy phạm h́nh thức và các quy phạm nội dung. Các quy phạm h́nh thức quy định các thủ tục xác lập quan hệ con nuôi.Các quy phạm nội dung quy định mục đích nuôi con nuôi, điều kiện nuôi con nuôi, chấm dứt việc nuôi con nuôi , các quyền và nghĩa vụ của chủ thể khi tham gia quan hệ nuôi con nuôi, trách nhiệm của một số cơ quan, tổ chức trong lĩnh vực nuôi con nuôi.



    Chương 2
    CHẾ ĐỊNH NUÔI CON NUÔI THEO LUẬT HN&GĐ NĂM 2000

    I/ MỤC ĐÍCH, Ư NGHĨA NUÔI CON NUÔI
    2.1.Mục đích của việc nuôi con nuôi
    Khoản 1 Điều 67 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi cn nuôivà người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng,chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xă hội”. Theo đó, có thể hiểu rằng việc nuôi con nuôi là xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và người được nhận làm con nuôi. Đây là mục đích chính mà các bên trong quan hệ mong muốn thiết lập khi tham gia quan hệ nuôi con nuôi và đây cũng là điểm khác biệt cơ bản của h́nh thức nuôi con nuôi với các h́nh thức chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em khác. Bởi v́ được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục bằng các h́nh thức khác nhau nên mức độ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đối với trẻ là có sự khác nhau.Do vậy,việc chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ được nhận làm con nuôi mới chỉ là một phần mục đích của nuôi con nuôi. Đối tượng chủ yếu của việc cho, nhận con nuôi là trẻ em và việc cho, nhận con nuôi chỉ được thực hiện v́ lợi ích tốt nhất của trẻ em.Việc nuôi con nuôi phải hướng tới mục tiêu bảo vệ trẻ em, đảm bảo quyền trẻ em, đặc biệt là quyền được sống trong gia đ́nh. V́ vậy, mục đích chính của việc nuôi con nuôi là nhằm thiết lập quan hệ cha mẹ và con trong gia đ́nh, h́nh thành một mái ấm gia đ́nh, mang lại hạnh phúc cho trẻ có hoàn cảnh đặc biệt như bị bỏ rơi, lang thang cơ nhỡ, bị khuyết tật , không có gia đỡnh.Mục đớch nuôi con nuôi là nền tảng bảo đảm việc cho, nhận con nuôi thực sự v́ mục đích nhân đạo, v́ lợi ích của trẻ em. Pháp luật nghiêm cấm các trường hợp lợi dụng việc nuôi con nuôi để bóc lột sức lao động, xâm phạm t́nh dục, mua bán trẻ em hoặc v́ mục đích trục lợi khác (khoản 3 Điều 67 Luật HN&GĐ năm 2000).Do đó, pháp luật cần có quy định cụ thể mục đích của việc nuôi con nuôi để đảm bảo tốt nhất quyền lợi của trẻ được nhận làm con nuôi, ngăn chặn những hiện tượng tiêu cực có thể xảy ra.
    2.2 Ư nghĩa xă hội của việc nuôi con nuôi
    Việc nuôi con nuôi có ư nghĩa quan trọng trong đời sống xă hội, thể hiện tính nhân đạo, đảm bảo cho người được nhận nuôi, đặc biệt là trẻ em được sống trong mái ấm gia đ́nh, trong t́nh yêu thương, đùm bọc, chở che của cha mẹ, được hưởng sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục và có đầy đủ điều kiện để phát triển về thể chất, tinh thần.Việc nuôi con nuụi cũn mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho người nhận nuôi, đáp ứng niềm mong muốn được thực hiện quyền làm cha, làm mẹ của họ và đảm bảo cho người nhận nuôi được hưởng sự chăm sóc, thương yêu của con cái khi về già.
    Đối với toàn xă hội hiện nay, nuôi con nuôi c̣n là một biện pháp hữu hiệu giải quyết t́nh trạng trẻ em lang thang cơ nhỡ, góp phần ngăn ngừa trẻ em phạm tội, hoặc các hành vi lạm dụng trẻ em vào mục đích vô nhân đạo.
    2.3 So sánh nuôi con nuôi với một số h́nh thức chăm sóc, giáo dục trẻ em khác.
    - H́nh thức nuôi dưỡng trẻ em tại các cơ sở nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt là một h́nh thức phổ biến nhất để chăm sóc, giáo dục trẻ em. H́nh thức này thường có quy mô lớn và mang tính tập thể. Đây cũng chính là điểm khác biệt lớn nhất so với h́nh thức nuôi con nuụi.Ở h́nh thức này không có quan hệ cha mẹ và con.
    - H́nh thức nhận đỡ đầu là một h́nh thức trợ giúp trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, được quy định tại khoản 2 Điều 43 Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em. Trong h́nh thức chăm sóc này, người đỡ đầu thường không trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng người được đỡ đầu. Giữa người nhận đỡ đầu và người được đỡ đầu không có quan hệ gia đ́nh, không có quan hệ cha mẹ và con.
    - H́nh thức gia đ́nh thay thế là một h́nh thức mới được quy định trong Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.Theo quy định tại khoản 3 Điều 3 Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, gia đ́nh thay thế là “gia đ́nh hoặc cá nhân nhận chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt”. H́nh thức này có những điểm giống so với h́nh thức nuôi con nuôi như người được chăm sóc nuôi dưỡng được chăm sóc, nuôi dưỡng tại gia đ́nh, có tính chất gia đ́nh riờng.Tuy nhiờn, vẫn có những đểm khác biệt : việc nuôi dưỡng trẻ em tại gia đ́nh thay thế chỉ mang tính tạm thời, không lâu dài và bền vững.Giữa người được nuôi dưỡng và người nuôi dưỡng không có quan hệ cha mẹ và con. Người được nuôi dưỡng không có quan hệ gia đ́nh với những người trong gia đ́nh thay thế. H́nh thức này chủ yếu nhằm mục đích chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em gặp những khó khăn đột xuất mà tạm thời cha mẹ đẻ không có khả năng chăm sóc nuôi dưỡng tại gia đỡnh mỡnh như trường hợp: cha mẹ chấp hành h́nh phạt tù, cha mẹ bị chết do tai nạn hay thiên tai
    - H́nh thức giám hộ là h́nh thức chăm sóc thay thế nhằm mục đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự, đặc biệt là trẻ em, bảo đảm cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng phù hợp với đạo đức xă hội. ( theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Bộ luật dân sự 2005). Trong quan hệ giám hộ, người giám hộ không có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà chỉ có nghĩa vụ chăm sóc, giáo dục người được giám hộ và việc chăm sóc này chủ yếu bằng tài sản của người được giám hộ.Giữa người giám hộ và người được giám hộ không có quan hệ cha mẹ và con. Trong khi đó, trong quan hệ nuôi con nuôi giữa các bên có quan hệ cha mẹ và con, nghĩa vụ nuôi dưỡng là nghĩa vụ bắt buộc đối với cỏc bờn.
    Tuy nhiên, sự khác biệt cơ bản về bản chất pháp lư của h́nh thức nuôi con nuôi và giám hộ là: nuôi con nuôi làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi và con nuôi, thể hiện sự gắn bó lợi ích của hai bên. C̣n việc giám hộ chỉ thực hiện việc chăm sóc, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người chưa thành niên trong những điều kiện nhất định mà không làm phát sinh quan hệ cha mẹ và con trước pháp luật.
    - Điều kiện pháp lư: Do bản chất của các h́nh thức trên là khác nhau nên việc xác định điều kiện nhận chăm sóc, nuôi dưỡng có khác nhau. Việc nuôi con nuôi h́nh thành quan hệ cha mẹ và con nên điều kiện đối với h́nh thức này đ̣i hỏi chặt chẽ, được quy định cụ thể trong các văn bản quy phạm pháp luật.
    - Hậu quả pháp lư: Việc nuôi con nuôi làm phát sinh các quyến và nghĩa vụ của cha mẹ và con, bao gồm các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản.Giữa người nhận nuôi và con nuôi đều có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng lẫn nhau.Người con nuôi được thừa kế tài sản của cha mẹ nuụi.Kinh phớ chăm sóc, nuôi dưỡng người con nuôi là của cha mẹ nuụi.Đối với h́nh thức giám hộ bằng các nguồn khác nhau như: của cha mẹ đẻ,của người thân được giám hộ, bằng nguồn tài trợ hoặc bằng sự tự nguyện của người giám hộ.
    - Chấm dứt: Căn cứ chấm dứt đối với các h́nh thức trên cũng khác nhau: Đối với việc nuôi con nuụi cỏc căn cứ chấm dứt được quy định tại Điều 67 Luật HN&GĐ năm 2000.Đó là khi có những hành vi của một bên hoặc cả hai bên đối với nhau dẫn đến việc tiếp tục quan hệ nuôi con nuôi là không thể tiếp tục duy tŕ được (thông thường là do lỗi của đương sự).Cũn với việc giám hộ,căn cứ chấm dứt quy định tại Điều 72 Bộ Luật Dân sự 2005. Theo đó, căn cứ chấm dứt việc giám hộ có thẻ xảy ra ngoài ư muốn của đương sự, mà không có lỗi của cỏc bờn
    (VD: người được giám hộ được nhận làm con nuôi)
     
Đang tải...