Tiểu Luận Con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Quản Trị Kinh Doanh' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước ở Việt Nam

    MỞ ĐẦU

    Dân tộc mình là dân tộc nghèo, một đất nước đang phát triển ở mức thấp, chúng ta vẫn sử dụng lao động thủ công là chính. Điều đó cho thấy lực lượng sản xuất chúng ta vẫn còn yếu kém, khoa học kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu. Chúng ta nhận biết được điều đó vì vậy chúng ta quyết tâm không để sự thấp kém đó tồn tại. Chính phủ và nhà nước đã lập ra nhiều chiến lược phát triển nền kinh tế trong đó có chiến lược mang tầm vóc lớn và có ý nghĩa thực tế với thực trạng kinh tế nước ta hiện nay đó là chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Chiến lược đưa ra với mục đích rất rõ ràng là chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại để tạo ra năng suất lao động cao. Tất cả những chiến lược định hướng đó đều có thể tạo ra sự đột biến trong nền kinh tế sản xuất của nước ta, song để thực hiện được nó thì yếu tố không thể thiếu và có thể nói là quan trọng hàng đầu là con người, nguồn nhân lực là bộ phận tác động trực tiếp, quyết định sự thành bại của sự nghiệp. Chúng ta đều biết lực lượng sản xuất bao gồm tư liệu sản xuất và con người, để lực lượng sản xuất phát triển thì con người phải thể hiện được trình độ, khả năng đối với tư liệu sản xuất. Cũng như vậy công nghiệp hoá - hiện đại hoá mà muốn thành công, phát triển thì con người lực lượng lao động phải biết sử dụng máy móc, khoa học công nghệ thể hiện trình độ càng cao thì công nghiệp hoá - hiện đại hoá sẽ càng phát triển hiện đại hơn. Như vậy có thể thấy một đất nước phát triển đòi hỏi nguồn nhân lực phải dồi dào, phải có đầy đủ sức mạnh cả về thể lực và trí lực. Nói cách khác đất nước đó phải là đất nước của một xã hội học tập, đất nước của những con người yêu nước, đất nước của những con người có trí tuệ, lòng hăng say học tập và lao động cần cù. Tất cả những điều đó xét về đất nước ta thì chúng ta không thiếu, có thể thấy được điều đó qua các cuộc kháng chiến giữ nước và các lớp trẻ của chúng ta khi tham gia Olympic. Mặc dù chúng ta có tiềm lực như vậy song để phát huy tiềm lực đó không phải đơn giản, muốn làm được vấn đề này chính là điểm yếu của đất nước ta. Chúng ta chưa sử dụng một cách hợp lý nguồn nhân lực vào các chiến lược kinh tế mà chính phủ nhà nước đã đặt ra. Việc sử dụng không hợp lý đó có rất nhiều các nguyên nhân song trong bất cứ một chiến lược cần phát triển nào đó thì chúng ta cần phải đi nghiên cứu vào thực trạng của nó sau đó đưa ra các giải pháp để phát triển. Có như vậy thì mới có thể tạo ra được sự phù hợp, đồng nhất để phát triển, mới có thể phát huy được điểm mạnh và khắc phục hạn chế điểm yếu. Mặt khác chiến lược công nghiệp hoá - hiện đại hoá ở nước ta hiện nay lại là một vấn đề càng phải quan tâm, nghiên cứu một cách chính xác chặt chẽ thì mới có thể thành công trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Bởi lẽ chúng ta là một nước nghèo xuất phát điểm là một nước nông nghiệp mà muốn thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá thì rõ ràng là điều không đơn giản. Chúng ta cần phải nghiên cứu thực trạng một cách chính xác để đề ra giải pháp hợp lý, để làm sao nâng cao hiệu quả nguồn nhân lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đây là vấn đề hết sức quan trọng đối với nước ta hiện nay, do đó em chọn đề tài "Vai trò của nguồn lực con người trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Liên hệ với Việt Nam". Em tin rằng con người Việt Nam sẽ đạt được điều này, đưa đất nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu.





















    CHƯƠNG 1


    CON NGƯỜI - KHÁI QUÁT VỀ CON NGƯỜI



    1.1. Quan niệm chung về con người trong lịch sử triết học trước Mác

    Triết học duy vật trước Mác, coi con người là một thực thể tự nhiên- thực thể xã hội. Song họ cũng không vượt qua tính chất siêu hình và thậm chí còn là duy tâm. Theo triết học Phương Đông với sự chi phối bởi thế giới quan duy tâm hoặc duy vật chất phác thơ ngây, biểu hiện trong tư tưởng Nho Giáo, Lão Giáo, quan niệm về bản chất con người củng thể hiện một cách phong phú. Chẳng hạn như Khổng Tử quy tính thiện của con người vào năng lực bẩm sinh, do ảnh hưởng bởi phong tục, tập quán xấu mà bị nhiễm cái xấu, xa rời cái tốt đẹp. Củng như Khổng Tử, Mạnh Tử cho rằng phải lấy lòng nhân ái, quan hệ đạo đức để dẫn dắt con người hường tới các giá trị dạo đức tốt đẹp. Tuân Tử cho rằng bản chất con người khi sinh ra là ác nhưng có thể cải biến được, qua một quá trình chống lại cái ác ấy thì con người mới tốt được. Lão Tử cho rằng con người sinh ra từ “ Đạo”. Do vậy con người cần phải sống theo lẽ tự nhiên thuần phát, không hành động một cách giả tạo, gò ép trái với quy luật tự nhiên.

    Cũng như triết học phương Đông, triết học phương Tây củng có nhiều quan niệm khác nhau về con người. Đặc biệt là Kitô giáo, họ nhận thức con người trên cơ sở thế giới quan duy tâm và thần bí. Triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu củng đã có sự phân biệt con người với giới tự nhiên, nhưng củng chỉ là hiểu biết bên ngoài về tồn tại con người. Triết học thời kỳ phục hưng cận đại đặc biệt đề cao vai trò trí tuệ, lý tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ.

    Nói chung nền triết học thời bấy giờ, vấn đề con người vẫn chưa được nhận thức đầy đủ cả về bản chất, về mặt sinh học và xã hội. Con người mới chỉ được nhấn mạnh về mặt cá thể, mà xem nhẹ mặt xã hội. Bởi vì họ đã quy đặc trưng bản chất con người theo khuynh hướng tuyệt đối hoá những thuộc tính tự nhiên hoặc thuộc tính xã hội, mà không thấy được vai trò của thực tiễn. Chẳng hạn, khi phê phán quan điểm duy tâm của Hêghen thì Phơbách cho rằng vấn đề giữa tư duy và tồn tại là vấn đề bản chất của con người vì chỉ có con người mới có tư duy và sự tồn tại của con người cũng như tư duy của con người không thể tách khỏi quá trình tâm sinh học. Tuy nhiên, Phơibách đã mắc phải sai lầm khi ông tuyệt đối hoá mặt sinh học của con người hoặc tách con người ra khỏi quan hệ hiện thực của xã hội hoặc ông quy bản chất con người vào tính tộc loại, mà đặc trưng của nó là tình cảm đạo đức, tôn giáo và tình yêu.

    Có thể khái quát rằng, các quan niệm về con người trong triết học trước Mác, dù đứng trên nền tảng thế giới quan duy tâm, nhị nguyên luận hoặc duy vật siêu hình, đều không phản ánh đúng bản chất con người. Họ đều xem xét con người một cách trừu tượng, tuyệt đối hoá về mặt tinh thần hoặc thể xác con người, tuyệt đối hoá mặt tự nhiên- sinh học mà không thấy được mặt xã hội trong đời sống con người. Tuy vậy củng không thể phủ nhận hết những thành tựu trong việc phân tích, quan sát con người, đề cao lý tính, xác lập các giá trị về nhân bản học để hướng con người tới tự do. Đó là những tiền đề có ý nghĩa quan trọng cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết học Macxít sau này.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...