Báo Cáo Con đường phát triển của ấn độ trong kỷ nguyên toàn cầu hoá

Thảo luận trong 'Chưa Phân Loại' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Mỗi nước nghèo có con đường phát triển riêng của mình. Các nước đang phát triển thường đi lên bằng lợi thế lao động rẻ và xuất khẩu hàng hoá giá thành hạ trước khi nghĩ đến đầu tư vào công nghệ cao. Tuy nhiên, lợi thế này sớm muộn rồi cũng mất, do những nước nghèo khác cùng cạnh tranh giá thành lao động, do các công ty đa quốc gia tăng cường đầu tư ra nước ngoài, khai thác lao động rẻ để sản xuất và xuất khẩu trở lại chính quốc. Đối với Ấn Độ cho đến thập kỷ 80, chiến lược hướng nội và kế hoạch hóa nền kinh tế đã kìm hãm sự phát triển. Công cuộc cải cách bắt đầu từ cuối thập kỷ 80, đầu 90 với quá trình tự do hóa thương mại và tư nhân hóa đã thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng mạnh. Điểm đặc biệt của Ấn Độ là quốc gia này đã nắm bắt được xu thế phát triển và những cơ hội to lớn của cuộc cách mạng thông tin để phát triển ngành công nghệ phần mềm, tạo nên một bước đột phá trong phát triển. Rất có thể đây là một con đường độc đáo, tận dụng ưu thế quốc gia và những cơ hội to lớn của công nghệ mới sẽ giúp Ấn Độ không phải trải qua quá trình công nghiệp hóa tuần tự thông thường, mà là một bước nhảy vọt lên một tầng nấc mới của phát triển. Như lời của Gurcharan Das ."Rất nhiều ngườì Ấn lo sợ rằng chẳng lẽ chúng ta lại không phải trải qua cuộc cách mạng công nghiệp, bởi vì nếu không thế chúng ta sẽ lấy đâu ra vải để mặc, sắt thép để xây nhà. Đó là một quan niệm sai lầm, đơn giản bởi vì giá trị gia tăng trong nền kinh tế thông tin, viễn thông, giải trí cao hơn rất nhiều nền kinh tế cũ".

    Chuyển từ chính sách kế hoạch hoá, thay thế nhập khẩu sang tự do hoá thị trường và hướng ra xuất khẩu

    Từ sau khi giành được độc lập năm 1947 cho đến đầu thập niên 90, Ấn Độ áp dụng một chiến lược tăng trưởng do chính phủ kiểm soát và điều hành trực tiếp. Theo Daniel Yergin and Joseph Stanislaw (2002), kết quả của đường lối kinh tế đóng và kế hoạch hoá đã dẫn Ấn Độ đến một hệ thống kinh tế có ba điểm bất hợp lý.

    Điểm bất hợp lý thứ nhất là “Chế độ Cấp phép – Permit Raj” - một hệ thống kiểm soát và cấp phép phức tạp, bất hợp lý và khó hiểu, kiểm soát mọi bước đi trong sản xuất, đầu tư, và đầu tư nước ngoài. Mục tiêu của hệ thống này - trở thành người nắm mọi thứ và cân bằng các lợi ích kinh tế quốc gia - đã biến hệ thống thành một bộ máy quan liêu chuyên quyền độc đoán. Mọi việc đều cần phải được phê chuẩn và đóng dấu. Nếu một nhà kinh doanh muốn chuyển từ sản xuất xẻng nhựa sang thùng nhựa, anh ta cũng cần phải có được một sự phê chuẩn. Một công ty cũng cần phải được phê chuẩn mới có thể tăng sản lượng. Kết quả là đã tạo ra hàng loạt các quyền lợi, và những quyền lợi này thì không hề khuyến khích tăng trưởng kinh tế - “Các chính trị gia thì kiếm lợi từ tham nhũng hối lộ, các quan chức nhà nước thì có được quyền lực, các nhà kinh doanh và công nhân thì ưa thích một thị trường được bảo hộ và quyền lợi của những kẻ ăn không ngồi rồi”.

    Điểm bất hợp lý thứ hai là sự quá chú trọng vào sở hữu nhà nước. Khu vực kinh tế nhà nước tăng từ 8 đến 26% tổng GDP trong khoảng thời gian từ 1960 đến 1991. Chính phủ trung ương sở hữu khoảng 240 doanh nghiệp không kể những ngành truyền thống vẫn thuộc sự quản lý của nhà nước như đường sắt và dịch vụ công cộng. Tầm quan trọng của các doanh nghiệp này được thể hiện qua quy mô của họ. Vào cuối những năm 1980, 70% việc làm được tạo ra trong những lĩnh vực lớn có tổ chức của nền kinh tế thuộc về các công ty nhà nước. Hơn nữa, người ta tính rằng, trên thực tế, một nửa trong số 240 doanh nghiệp đề cập ở trên đã sắp sửa phá sản. Các doanh nghiệp nhà nước đều hoạt động trong các thị trường hoàn toàn được bảo hộ và không chịu một sự cạnh tranh nào. Kết quả là khu vực kinh tế nhà nước không có động cơ để hoạt động hiệu quả, họ không đáp ứng được nhu cầu khách hàng và ngày càng trở nên thua lỗ.

    Điểm bất hợp lý thứ ba là không chú trọng đến thương mại quốc tế. Một tư tưởng được miêu tả là “chủ nghĩa bi quan xuất khẩu” ngự trị trong các nhà lãnh đạo. Ấn Độ áp dụng các chính sách hướng nội tự cung tự cấp vốn rất phổ biến ở các nước đang phát triển trong những năm 1950 và 1960. Bằng việc từ chối thương mại và đầu tư nước ngoài, Ấn Độ đã tự loại mình ra khỏi nền kinh tế thế giới. Ấn Độ đã phát triển một đội ngũ rất lớn các nhà khoa học và kỹ sư tài năng, nhưng cũng như Liên xô, có quá nhiều trở
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...