Tài liệu Cò Vetiver - nguồn gốc và một số đặc tính

Thảo luận trong 'Địa Chất' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Việt Nam, hàng trăm hecta đất dọc theo bờ sông đã bị sạt lở. Có hàng ngàn cây số đê
    điều bị đe dọa sạt lở do sóng đánh khi có tàu thuyền đi qua. Vùng Đồng bằng sông Cửu
    Long (ĐBSCL) lại là vùng ngập lũ thường xuyên hằng năm, nên vấn đề phòng chống sạt
    lở bờ sông, đê điều là điều đáng quan tâm. Những con số về thiệt hại đã được ước tính
    tăng theo cấp số nhân mà các biện pháp phòng chống sạt lở đã và đang áp dụng tốn nhiều
    chi phí nhưng hiệu quả không cao. Do vậy, vấn đề phòng chống sạt lở bờ sông, đê điều
    sao cho có hiệu quả và kinh tế là điều đáng quan tâm của các ngành và các cấp.
    Dựa vào đặc tính thực vật có thể sử dụng cỏ Vetiver vào việc phòng chống sạt lở bờ
    sông, đê điều ở ĐBSCL nói riêng và Việt Nam nói chung, bước đầu đã được nghiên cứu
    và triển khai.
    Tuy nhiên, diện tích và mức độ sử dụng loài cỏ này cũng còn nhiều hạn chế.
    Nguyên nhân có thể do:
    1. Số lượng cây giống còn quá ít không đủ cung cấp.
    2. Vì chúng có khả năng thích nghi rộng ở nhiều vùng sinh thái khác nhau. Người ta
    nghi ngờ nó có thể trở thành dịch hại.
    Những năm gần đây, An Giang đã tìm nguồn giống cỏ Vetiver để trồng với mục
    đích chống sạt lở ở một số huyện như Tri Tôn, Tân Châu và một số tỉnh ở ĐBSCL
    cũng như một số tỉnh miền Đông, miền Bắc cũng đã triển khai trồng loại cỏ này vì mục
    đích chống xói mòn, sạt lở.
    Vậy cỏ Vetiver là loại gì? nguồn gốc của nó như thế nào? Và tại sao nó đã được
    nhiều nước trên thế giới áp dụng trồng rộng rãi ? Vì mục đích chống xói mòn và sạt lở
    đất?
    Các kết quả nghiên cứu đã cho thấy có 12 giống cỏ Vetiver được biết đến, trong đó
    được trồng phổ biến là loài cỏ Vetiver có tên khoa học Vetiveria Zizanioides L. thuộc họ
    Graminae, họ phụ Panicoideae, tộc Andropogoneae, tộc phụ Sorghinae. Loài cỏ này
    trong những năm gần đây đã phát triển mạnh mẽ vì lợi ích to lớn của chúng là chống xói
    mòn do bộ rễ phát triển mạnh, thành chùm đan xen trong đất và có thể chịu được lực
    bằng 1/6 lần so với chịu lực của bê tông. Với bộ rễ ăn sâu trong đất, 3 mét sâu trong một
    năm đầu. Do đó, trồng loài cỏ này được xem như xây dựng một hàng rào bê tông sinh
    học chống lại xói mòn và bảo vệ đất đai. Hệ thống rễ này phát triển thành mạng lưới dày
    đặc giữ cho đất kết dính lại, đồng thời không cho đất bị bật ra khi gặp những dòng chảy
    có vận tốc lớn. Ngoài ra, thân cỏ mọc đứng và vươn thẳng nếu trồng sát nhau thì làm
    giảm vận tốc dòng chảy, chặn được lớp đất bị nước cuốn trôi.
    1. Nguồn gốc
    Có hai loài cỏ Vetiver phổ biến đã được trồng để bảo vệ đất là V. zizanioides và
    Vetiveria nigritana. Tuy nhiên, loài V. zizanioides phân bố trong vùng ẩm, trong khi loài
    V. nigritana hiện diện ở những vùng khô hơn. Có hai kiểu gen của loài Vetiveria
    zizanioides đã và đang được sử dụng:
    - Kiểu gen Bắc Ấn Độ: Là loại
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...