Thạc Sĩ Cơ sở lý luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiệ

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 17/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Cơ sở lý luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay
    Luận văn thạc sĩ
    Đề tài:
    Cơ sở lý luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay
    Định dạng file word

    7. Kết cấu của luận văn

    Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương, 8
    tiết.


    MỞ ĐẦU


    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Đấu tranh phòng và chống tội phạm, phát hiện chính xác, nhanh chóng và xử lý công
    minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội
    là vấn đề hết sức quan trọng trong xã hội, đồng thời cũng là mục đích của tố tụng hình
    sự.
    Theo quy định của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) và Luật tổ chức Viện kiếm
    sát nhân dân năm 2002 thì Viện kiểm sát thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
    và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Mục đích hoạt động của Viện kiểm sát trong tố tụng
    hình sự là nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra, xử lý
    kịp thời; việc truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
    để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Thông qua việc thực
    hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát bảo đảm cho pháp luật nói chung và
    pháp luật hình sự nói riêng được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
    Theo quy định của BLTTHS năm 2003, Viện kiếm sát cùng cấp và Viện kiểm sát cấp
    trên trực tiếp có quyền kháng nghị những bản án hoặc quyết định sơ thẩm của Toà án
    nhân dân. Đây là một quyền năng pháp lý quan trọng nhằm bảo đảm cho bản án, quyết
    định của Toà án có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
    Cải cách tư pháp ngày càng được chú trọng và đẩy mạnh cùng với công cuộc đổi mới
    của đất nước. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 2 tháng 6 năm 2005 của Ban chấp hành
    trung ương về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 nêu rõ mục tiêu “Xây dựng
    nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
    hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư
    pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành hiệu quả và hiệu lực cao” [23,
    tr.2]. Cùng với phương hướng:
    Hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự và dân sự phù hợp với nền kinh tế thị trường
    định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
    Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp,
    đảm bảo tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ quyền con
    người [23, tr.2- 3].
    Theo tinh thần Nghị quyết 49 về nhiệm vụ hoàn thiện chính sách, pháp luật hình sự,
    trong đó có nhiệm vụ quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách
    nhiệm của người ra kháng nghị để khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn
    cứ.
    Chỉ thị số 03/2008/CT-VKSTC-VPT1 ngày 19 tháng 6 năm 2008 về "Tăng cường công
    tác kháng nghị phúc thẩm hình sự " của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
    cũng đã nêu rõ Viện kiểm sát nhân dân các cấp thực hiện một số nội dung theo quy định
    của pháp luật nhằm nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự trong thời gian
    tới.
    Trong thời gian qua, công tác kháng nghị phúc thẩm đối với bản án, quyết định sơ thẩm
    hình sự của Toà án nhân dân đã đạt được những kết quả nhất định. Chất lượng kháng
    nghị đã từng bước được nâng lên, nhìn chung đã bảo đảm về hình thức, nội dung có căn
    cứ pháp lý; tỷ lệ kháng nghị được Viện kiểm sát cấp phúc thẩm bảo vệ và Toà án cấp
    phúc thẩm chấp nhận được tăng lên rõ rệt.
    Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự
    còn không ít bất cập. Tỷ lệ kháng nghị được Toà án cấp phúc thẩm chấp nhận thường
    chỉ chiếm 65%; số lượng kháng nghị phúc thẩm có chiều hướng giảm trong khi số án sơ
    thẩm phải cải sửa, huỷ án thông qua kháng cáo chiếm tỷ lệ không nhỏ (từ 15% đến 20%
    số vụ án xét xử phúc thẩm) hay có một số Viện kiểm sát trong nhiều năm liền không có
    kháng nghị phúc thẩm hình sự .
    Những tồn tại, thiếu sót nêu trên có nhiều nguyên nhân từ nguyên nhân chủ quan đến
    nguyên nhân khách quan. Do năng lực và trách nhiệm của cán bộ, kiểm sát viên; lãnh đạo
    một số đơn vị chưa thật sự quan tâm tới công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự; mối quan
    hệ phối hợp giữa Viện kiểm sát các cấp về công tác kháng nghị phúc thẩm chưa cao; Bộ
    luật tố tụng hình sự chưa có quy định cụ thể về căn cứ kháng nghị phúc thẩm, thời hạn
    kháng nghị trên một cấp còn ngắn, việc sao gửi bản án sơ thẩm của Toà án cấp sơ thẩm cho
    Viện kiểm sát cấp trên chưa được quy định; trang thiết bị hỗ trợ cho công tác thực hành
    quyền công tố và kiểm sát xét xử chưa đáp ứng yêu cầu những nguyên nhân trên làm cho
    chất lượng công tác kháng nghị phúc thẩm bị ảnh hưởng không nhỏ.
    Viện kiểm sát phải nâng cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự nói riêng, làm tốt
    công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử nói chung để đáp ứng theo yêu cầu
    cải cách tư pháp trong tình hình mới và thực hiện tốt Chỉ thị số 03 của Viện trưởng Viện
    kiểm sát nhân dân tối cao
    Do vậy việc nghiên cứu luận văn “Cơ sở lý luận và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm
    hình sự của Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam hiện nay” là cần thiết trong thời điểm
    hiện nay. Thông qua việc nghiên cứu cơ sở lý luận về kháng nghị phúc thẩm hình sự và
    thực trạng của công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự trong những năm gần đây, tìm ra
    nguyên nhân của hạn chế và tồn tại, đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để nâng cao
    chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự theo tinh thần Chỉ thị 03/2008 ngày 19 tháng
    6 năm 2008 về “Tăng cường công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự” của Viện trưởng
    Viện kiểm sát nhân dân tối cao, qua đó thực hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố
    và kiểm sát xét xử của ngành đáp ứng yêu cầu công cuộc cải cách tư pháp trong giai
    đoạn hiện nay.
    2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
    Kháng nghị phúc thẩm hình sự là một quyền năng pháp lý quan trọng của Viện kiểm sát
    trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Thông qua
    kháng nghị phúc thẩm hình sự, Viện kiểm sát bảo đảm cho mọi hoạt động tư pháp được
    tiến hành đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, khắc phục tình trạng bỏ lọi tội phạm và
    người phạm tội, không làm oan người vô tội. Yêu cầu cải cách tư pháp đặt ra đối với
    công tác đổi mới tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân theo quan điểm của Đảng
    về cải cách tư pháp trên tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị thì việc nâng
    cao chất lượng kháng nghị phúc thẩm hình sự là một vấn đề cần thiết, chính vì vậy:
    Công tác kháng nghị phúc thẩm hình sự nói riêng, việc thực hiện chức năng thực hành
    quyền công tố và kiểm sát xét xử đã được chú trọng hơn trong những năm gần đây
    thông qua việc tổ chức những hội nghị, hội thảo chuyên đề, tổng kết rút kinh nghiệm .


    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. Bách khoa toàn thư (2008), Tiền lệ pháp.
    2. Bách khoa toàn thư (2008), Hệ thống Luật Châu Âu lục địa.
    3. Bách khoa toàn thư (2008), So sánh Luật Châu Âu lục địa với Thông luật.
    4. Bộ Luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1988), (sửa đổi
    năm 1990, 1992, 2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
    5. Bộ Luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Nxb
    Chính trị quốc gia, Hà Nội.
    6. Bộ Tư pháp (1957), Thông tư số 141-HCTP ngày 5 tháng 12 năm 1957 về tổ chức và
    phân công nội bộ của toà án.
    7. Dương Thanh Biểu và nhiều tác giả (2008), Sách “Tranh luận tại phiên toà phúc
    thẩm”, Nxb Tư pháp.
    8. Lê Tiến Châu, Ths - giáo viên khoa Luật - Đại học luật Thành phố Hồ Chí Minh
    (2005), Tìm hiểu các hình thức tố tụng hình sự.
    9. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 33C ngày 13 tháng 9 năm 1945, Cơ
    sở dữ liệu luật Việt Nam.
    10. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 37 ngày 26 tháng 9 năm 1945, Cơ
    sở dữ liệu luật Việt Nam.
    11. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 64 ngày 23 tháng 11 năm 1945, Cơ
    sở dữ liệu luật Việt Nam.
    12. Chủ tịch Chính phủ lâm thời (1945), Sắc lệnh số 33C ngày 13 tháng 9 năm 1945,
    Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam.
    13. Chủ tịch nước (1946), Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 1 năm 1946, Cơ sở dữ liệu luật
    Việt Nam.
    14. Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946), Sắc lệnh số 21
    ngày 14 tháng 2 năm 1946, Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam.
    15. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946), Sắc lệnh số 51 ngày 17
    tháng 4 năm 1946, Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam.
    16. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946), Sắc lệnh số 112 ngày 28
    tháng 6 năm 1946, Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam.
    17. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946), Sắc lệnh số 131 ngày 20
    tháng 7 năm 1946, Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam.
    18. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà (1950), Sắc lệnh số 85 ngày 22
    tháng 5 năm 1946, Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam.
    19. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà (1950), Sắc lệnh số 156 ngày 17
    tháng 11 năm 1946, Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam.
    20. Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1957), Sắc lệnh số 12 ngày 30 tháng 3
    năm 1957, Cơ sở dữ liệu luật Việt Nam.
    21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của
    Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội
    22. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ
    Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm
    2010 định hướng đến năm 2020, Hà Nội.
    23. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ
    Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
    24. Phạm Hồng Hải (2006), Đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan
    thực hành quyền công tố đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, Tạp chí chuyên ngành – Hà
    Nội.
    25. Nguyễn Mạnh Hùng (2004), Khái quát hệ thống pháp luật Hoa Kỳ.
    26. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (1946), (1959), Nxb Chính trị quốc gia,
    Hà Nội.
    27. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1980), (1992), Nxb Chính trị
    quốc gia, Hà Nội.
    28. Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (1960), (1981), (1992), (2002), Nxb Chính trị
    quốc gia, Hà Nội.
    29. Luật Tổ chức Toà án nhân dân (1960), (1981), (1992), (2002), Nxb Chính trị quốc
    gia, Hà Nội.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...