Tiểu Luận Cơ sở lý luận và thực tiễn để giải quyết lạm phát ở Việt Nam 2000-2005

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Định dạng file word dài 27 trang


    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Lịch sử đã chứng minh rằng trong quá trình phát triển kinh tế, các quốc gia đều đã từng đối mặt với lạm phát, nhưng không phải lúc nào lạm phát cũng gây ra những tác động tiêu cực, trong nền kinh tế thị trường, nhiều quốc gia còn sử dụng lạm phát một con số làm động lực để kích thích nền kinh tế phát triển. Nước ta sau 12 năm kiềm chế được lạm phát (1995-2007) ở một con số, trong thời gian này chúng ta đã kiểm soát được lạm phát. Trong 2 thập kỷ qua, năm 2000 là năm duy nhất xảy ra hiện tượng giảm phát (CPI giảm 0,6%). Nhưng trước năm 2000, tốc độ lạm phát giảm và thậm chí âm các năm liên tiếp 2000 và 2001 với mức tương ứng -1,6% và -0,4%. Tuy nhiên, sau năm 2002 lạm phát cao đã xuất hiện bằng sự đảo chiều và tăng nhanh tới 4,4% (từ -0,4% lên 4%) so với năm trước. Ngay từ những tháng đầu năm 2004, khi xu hướng lạm phát mạnh bắt đầu có dấu hiệu manh nha, đã có rất nhiều khẳng định lạm phát cả năm tuy vượt qua con số 5% mà Quốc hội đề ra nhưng sẽ không bao giờ vượt quá con số 7,5%? Thế rồi mỗi tháng trôi qua, liên tục các dự báo đều thất bại, và cuối năm 2004 thì lạm phát gần bằng hai con số.
    Đề tài Cơ sở lý luận và thực tiễn để giải quyết lạm phát ở vn 2000-2005” được hình thành dựa trên những thách thức, khó khăn đó phải được nghiên cứu về cả mặt lý luận và thực tiễn, từ đó đưa ra những giải pháp can thiệp một cách linh hoạt có hiệu quả, tham gia các ý kiến thực hiện các chính sách vĩ mô của nước ta trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

    2. Tình hình nghiên cứu đề tài

    Vốn dĩ là một chủ đề nhạy cảm, không những chỉ là một biến số kinh tế vĩ mô quan trọng mà nó còn gợi lại nỗi ám ảnh giá cả leo thang trong trong quá khứ của Việt Nam. Do vậy, chủ đề lạm phát đã lôi cuốn nhiều chuyên gia kinh tế lẫn nhà chức trách tìm hiểu nguyên nhân và đưa ra biện pháp khắc phục.
    Vì vậy, đã có nhiều cuộc hội thảo, nhiều công trình nghiên cứu và sách báo, tài liệu đề cập đến vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau. Nghiên cứu về quá trình lạm phát, tác hại và những biện phát khắc phục: Lý thuyết và kiểm chứng thực nghiệm mô hình p-star (Nguyễn Trọng Hoài, Nguyễn Hoài Bảo), Nhà xuất bản Thống Kê. Những Chính Sách Và Biện Pháp Của Chính Phủ Về Kiềm Chế Lạm Phát Ổn Định Và Tăng Trưởng Kinh Tế (Thi Anh), Nhà xuất bản Nxb Lao động Xã hội.
    Những thành tựu nghiên cứu nói trên là tài liệu quý báu, giúp tác giả hoàn thành tốt hơn công trình nghiên cứu của mình: Cơ sở lý luận và thực tiễn để giải quyết lạm phát ở vn 2000-2005”, tác giả muốn được góp một phần nhỏ bé vào việc tìm hiểu về tính hình lạm phát ở Việt Nam giao đoạn 2000-2005 từ đó hướng đến các biện pháp giải quyết thiết thực.

    3. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài

    Mục đích: Đề tài nhằm mục đích hệ thống hóa các kiến thức cơ bản về lạm phát và các phạm trù liên quan đến lạm phát, đặc biệt là lý luận về các giải pháp giảm thiểu lạm phát để ổn định và phát triển kinh tế của một quốc gia, đặc biệt là đề tài đã đi vào thực tiễn về lạm phát ở Việt Nam trong giai đoạn từ 2000 đến cuối năm 2005, từ đó tìm ra tính quy luật phổ biến của diễn biến rất phức tạp của lạm phát trong một quốc gia đang phát triển như là nước ta và các bài học kinh nghiệm, các giải pháp can thiệp về kiềm chế lạm phát trong nền kinh tế đã có yếu tố hội nhập ở Việt Nam.
    Nhiệm vụ: trình bày, giải thích một cách rõ ràng tình trạng lạm phát ở việt nam từ khái niệm, nguyên nhân kết quả, các thuật ngữ kinh tế từ đó đi đến phương hướng giải quyết.
    Giới hạn: chúng tôi không nói về tình hình kinh tế lạm phát của Viêt Nam qua 2 thập kỉ mà chỉ tập trung nghiêm cứu tình hình lạm phát ở Việt Nam trong 1 giai đoạn 2000-2005.

    4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài

    Đề tài tiếp thu các thành tựu lý luận đã đạt được bổ sung và góp phần làm sáng tỏ tình hình lạm phát ở Việt Nam và phương pháp giải quyết trong giai đoạn 2000-2005. Mong muốn góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp phát triển nền kinh tế quốc gia.




    5. Kết cấu của đề tài
    Đề tài gồm có 3 phần:
    Phần mở đầu có 5 tiết.
    Phần nội dung có 3 chương.
    Phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.

    CHƯƠNG 1
    TỔNG QUAN VỀ LẠM PHÁT

    1.1. KHÁI NIỆM, BẢN CHẤT VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA LẠM PHÁT

    1.1.1. Khái niệm, phân loại lạm phát

    1.1.1.1. Khái Niệm

    Một trong những vấn đề hóc búa nhất mà các xã hội phải đối mặt trong quá trình chuyển từ một nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường là lạm phát. Tuy nhiên, đó là thách thức mà các xã hội đó phải vượt qua nếu muốn được hưởng những lợi ích vật chất mà nền kinh tế thị trường có thể mang lại.
    Có nhiều quan điểm nhìn nhận và định nghĩa lạm phát rất khác nhau:
    - Có quan điểm cho rằng lạm phát là sự tăng lên liên tục của giá cả, nói cách khác đó là tình trạng mức giá cả tăng và tăng liên tục. Theo quan điểm này thì không kể giá cả tăng lên do nguyên nhân nào đều là lạm phát.
    - Quan điểm khác cho rằng lạm phát là việc phát hành thừa tiền giấy quá mức đảm bảo bằng vàng, bạc, ngoại tệ, của Quốc gia, vì vậy gây ra sự mất giá của tiền giấy làm cho giá cả hàng hóa bị đẩy lên cao, quan điểm này quá coi trọng cơ sở đảm bảo bằng vàng, ngoại tệ cho tiền trong nước và người ta cho rằng để chống lạm phát cần phục hồi lại chế độ tiền giấy chuyển đổi ra vàng theo một mức giá quy định.
    - Lại có quan điểm cho rằng lạm phát là sự mất cân đối nghiêm trọng giữa tiền và hàng trong nền kinh tế, sự mất cân đối với tiền lớn hơn càng khiến cho giá cả tăng lên ở mọi lúc mọi nơi. Để khắc phục tình trạng này cần dùng một biện pháp để thiết lập lại sự cân đối giữa tiền và hàng trong nền kinh tế.
    Việc nhìn nhận lạm phát bằng định nghĩa này hay định nghĩa khác khó đi đến thống nhất theo từng quan điểm riêng biệt. Tuy nhiên dù sao lạm phát thể hiện qua những đặc trưng cơ bản như:
    - Sự thừa tiền do cung tiền tệ tăng quá mức.
    - Sự tăng giá cả đồng bộ và liên tục theo sự mất giá của tiền giấy.
    - Sự phân phối lại qua giá cả.
    - Sự bất ổn về kinh tế – xã hội.
    Từ những quan điểm trên Milton Friedman đưa ra một khái niệm về lạm phát được nhiều nhà kinh tế phái tiền tệ hay phái Keynes đồng ý:
    * Khái niệm: Lạm phát là hiện tượng cung tiền tệ tăng lên kéo dài làm cho mức giá cả chung tăng nhanh tồn tại trong một thời gian dài.

    1.1.1.2. Phân loại lạm phát

    Lạm phát thấp: Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá từ 3.0 đến dưới 10 phần trăm một năm.
    Lạm phát cao (Lạm phát phi mã): Mức lạm phát tương ứng với tốc độ tăng giá trong phạm vi hai hoặc ba chữ số một năm thường được gọi là lạm phát phi mã, nhưng vẫn thấp hơn siêu lạm phát. Việt Nam và hầu hết các nước chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường đều phải đối mặt với lạm phát phi mã trong những năm đầu thực hiện cải cách. Nhìn chung lạm phát phi mã được duy trì trong thời gian dài sẽ gây ra những biến dạng kinh tế nghiêm trọng. Trong bối cảnh đó, đồng tiền sẽ bị mất giá nhanh, cho nên mọi người chỉ giữ lượng tiền tối thiểu vừa đủ cho các giao dịch hàng ngày. Mọi người có xu hướng tích trữ hàng hóa, mua bất động sản và chuyển sang sử dụng vàng hoặc các ngoại tệ mạnh để làm phương tiện thanh toán cho các giao dịch có giá trị lớn và tích lũy của cải.
    Siêu lạm phát: là lạm phát "mất kiểm soát", một tình trạng giá cả tăng nhanh chóng khi tiền tệ mất giá trị. Không có định nghĩa chính xác về siêu lạm phát được chấp nhận phổ quát. Một định nghĩa cổ điển về siêu lạm phát do nhà kinh tế ngưười Mỹ Phillip Cagan đưa ra là mức lạm phát hàng tháng từ 50% trở lên (nghĩa là cứ 31 ngày thì giá cả lại tăng gấp đôi). Theo định nghĩa này thì cho đến nay thế giới mới trải qua 15 cuộc siêu lạm phát. Một trường hợp được ghi nhận chi tiết về siêu lạm phát là nước Đức sau Thế chiến thứ nhất. Giá một tờ báo đã tăng từ 0,3 mark vào tháng 1 năm 1922 lên đến 70.000.000 mark chỉ trong chưa đầy hai năm sau. Giá cả của các thứ khác cũng tăng tương tự. Từ tháng 1 năm 1922 đến tháng 11 năm 1923, chỉ số giá đã tăng từ 1 lên 10.000.000.000. Cuộc siêu lạm phát ở Đức có tác động tiêu cực tới nền kinh tế Đức đến mức nó thường được coi là một trong những nguyên nhân làm nảy sinh chủ nghĩa Đức quốc xã và Thế chiến thứ hai. Có một số điều kiện cơ bản gây ra siêu lạm phát. Thứ nhất, các hiện tượng này chỉ xuất hiện trong các hệ thống sử dụng tiền pháp định. Thứ


    TÀI LIỆU THAM KHẢO

    1. http://www.vietbao.vn
    2. http://www.hanoimoi.com.vn
    3. http://www.vietnamhoc.the-talk.net
    4. htttp://www.chungta.com
    5. http://www.thesaigontimes.vn.
    6. Khoa Lý Luận Chính Trị (9/2009) những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, Nhà xuất bản Trường Đại Học Công Nghiệp Tp. HCM.
    7. Phan Thị Cúc, Đoàn Văn Huy (chủ biên) (2010) Lý thuyết tài chính tiền tệ, Nhà xuất bản Thống Kê.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...