Tiểu Luận Cổ phần hoá Doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ĐỀ CƯƠNG KINH TẾ CHÍNH TRỊ​ Đề tài : Cổ phần hoá doanh nghiệp trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế
    Mở đầu : đặt vấn đề về tính tất yếu của vấn đề cổ phần hoá :
    + Đòi hỏi của lí luận
    + Đòi hỏi của thực tiễn
    + Căn cứ vào chủ trương đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước
    Nội dung:
    I. Chủ lí luận của nghĩa Marx-Lenin về sở hữu và các thành phần kinh tế
    1 Bản chất của sở hữu
    2 Vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước
    2.1 Bản chất của thành phần kinh tế Nhà nước
    2.2 Đặc điểm vai trò của kinh tế Nhà nước :
    .Về sở hữu
    .Về các ngành kinh tế mũi nhọn
    .Về hướng phát triển
    II. Doanh nghiệp Nhà Nước thực trạng và vấn đề đặt ra
    1 Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nước ta hiện nay
    2 Thực trạng hoạt động của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước
    2.1 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước
    2.2 Nguyên nhân của tình trạng trên
    2.3 Những vướng mắc cần giải quyết
    III. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là giải pháp cơ bản để đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay
    1. Các quan điểm vềcổ phần hoá củaĐảng Cộng sản Việt Nam
    2 Tình trạng cổ phần hoá ở Việt Nam hiện nay
    2.1 Bản chất của cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
    2.2 Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
    2.3 Những giải pháp thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
    Kết luận :
    Rút ra kết quả chủ yếu của đề án đã đề cập và kiến nghị của cá nhân về vấn đề cổ phần hoá.


    LỜI MỞ ĐẦU​ Kinh tế Nhà nước mà thành phần chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước(DNNN) đang đóng một vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân hiện nay .Nhưng bên cạnh những thành tựu và đóng góp to lớn của các DNNN trong suốt quá trình phát triển của nền kinh tế nước ta thì hiện nay các DNNN đang phải đối đầu với nhiều khó khăn thử thách như: tình trạng làm ăn thua lỗ, công nghệ lạc hậu ,sức cạnh tranh trên thị trường kém ,yếu kém trong quản lý tài sản cũng như nhân lực Thì một yêu cầu cấp thiết đặt ra là làm sao phải năng cao hiệu quả kinh tế của các DNNN mà vẫn giữ vững vai trò chủ đạo của DNNN trong nền kinh tế quốc dân .
    Một giải pháp đúng đắn được đưa ra là cổ phần hoá các DNNN. Mục tiêu cổ phần hoá các DNNN là :”Tạo ra loại hình kinh doanh có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động, phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Bắt đầu thực hiện cổ phần hóa DNNN từ năm 1992 sau hơn 10 năm thực hiện thì quá trình cổ phần hoá DNNN đã thu được những thành tựu đáng kể nhưng cũng không ít vướng mắc cần những biện pháp khắc phục kịp thời để tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa ở nước .



    NỘI DUNG​ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ VIỆC CỔ PHÂN HOÁ MỘT BỘ PHẬN DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở NƯỚC TA.
    1.1. Yêu cầu đổi mới Doanh nghiệp nhà nước.
    - Phát triển kinh tế và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Doanh nghiệp nhà nước nắm trong tay phần lớn những nguồn lực của nền kinh tế như tài nguyên thiên nhiên, vốn và nhân lực. Tuy nhiên hầu hết các doanh nghiệp lại sử dụng lãng phí không hiệu quả các nguồn lực khan hiếm. Điều này chỉ ra trước tương lai không sảng sủa của nền kinh tế. Tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế trong những năm qua không có nghĩa là mọi việc của chúng ta đang tiến triển tốt đẹp. Các tổ chức kinh tế thế giới đã cảnh báo không ít lần là tốc độ tăng trưởng cao của chúng ta có một nguyên nhân quan trọng là nền kinh tế có điểm xuất phát thấp.
    - Phát triển kinh tế đòi hỏi xoá bỏ bao cấp đổi với Doanh nghiệp nhà nước. Hiện nay mối quan hệ giữa Nhà nước và các Doanh nghiệp nhà nước hoàn toàn không rõ ràng. Nhà nước không nắm rõ ở mỗi thời điểm tổng số doanh nghiệp của mình là bao nhiêu, chứ chưa nói đến các chỉ tiêu phức tạp như vốn nằm ở đâu, tăng giảm như thế nào, hiệu quả sử dụng ra sao? Để duy trì doanh nghiệp kém hiệu quả, Nhà nước đã sử dụng hàng loạt các biện pháp bao cấp trực tiếp và gián tiếp như : xoá nợ, khoanh nợ, tăng vốn, ưu đãi tín dụng, tính chi phí không đầy đủ và cuối cùng, không ai biết Doanh nghiệp nhà nước nuôi xã hội hay xã hội phải nuôi Doanh nghiệp nhà nước. Không nên quên rằng Doanh nghiệp nhà nước là phương tiện chứ không phải mục đích. Cạnh tranh với khu vực tư nhân. Yêu cầu đổi mới còn xuất phát từ việc cạnh tranh với khu vực tư nhân đang hồi sinh nhanh chóng. Mặt khác, trong quá trình hội nhập, Doanh nghiệp nhà nước không phải chỉ cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân trong nước mà với cả các doanh nghiệp tư nhân rất mạnh của nước ngoài. Cạnh tranh trong nước và quốc tế không chấp nhận việc Nhà nước giữ độc quyền cho các doanh nghiệp của mình. Cạnh tranh bình đẳng đòi hỏi không chỉ xoá bỏ độc quyền mà cả bao cấp.
    1.2. Cổ phần hoá - giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước tối ưu
    1.2.1. Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là gì?
    1.2.1.1. Khái niệm về Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
    Phải nói rằng nhân dân ta không còn xa lạ gì với khái niệm cổ phần. Cụm từ “cổ phần” đã rất quen thuộc từ trên 40 năm nay, kể từ khi Đảng ta vận động nhân dân lập hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập cửa hàng, xí nghiệp, công ty hợp danh.
    Vậy Cổ phần hoá là gì? “Cổ phần hoá là quá trình chuyển Doanh nghiệp nhà nước từ chỗ chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nước thành lập doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu”.
    Người chủ sở hữu của doanh nghiệp là các cổ đông tự do bầu chọn ra Hội đồng quản trị là người đại diện chính thức cho mình.
    1.2.1.2. Bản chất và các hình thức Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
    Xét ở bản chất pháp lý, cổ phần hoá là biến doanh nghiệp một chủ thành doanh nghiệp nhiều chủ tức là chuyển từ hình thức sở hữu đơn nhất sang sở hữu chung thông qua việc chuyển một phần tài sản của doanh nghiệp cho những người khác. Những người này trở thành sở hữu doanh nghiệp theo tỷ lệ tài sản mà họ sở hữu trong doanh nghiệp cổ phần hoá. Xét dưới góc độ này thì cổ phần hoá dẫn tới sự xuất hiện không chỉ của công ty cổ phần trên nền tảng của doanh nghiệp được cổ phần hoá. Bản chất của cổ phần hoá như đã nêu ở trên không phải cũng được hiểu đúng trong thực tiễn xây dựng và thực hiện pháp luật về cổ phần hoá. Có quan điểm đồng nhất cổ phần hoá với tư nhân hoá hay có quan điểm cho rằng cổ phần hoá chỉ liên quân đến Doanh nghiệp nhà nước.
    Nhìn bề ngoài, cổ phần hoá là quá trình xác định lại mục tiêu phương hướng kinh doanh, nhu cầu vốn điều lệ và chia ra thành cổ phần. Đánh giá lại tài sản của doanh nghiệp, quyết định mức vốn Nhà nước giữ cần nắm giữ và rao bán rộng rãi phần còn lại. Qua đó làm thay đổi cơ cấu sở hữu, huy động tiền vốn, xác lập cụ thể những người tham gia làm chủ, được chia lợi nhuận và chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành Công ty cổ phần, thuộc sở hữu của tập thể cổ đông và chuyển sang hoạt động theo Luật của doanh nghiệp.
    Song để hiểu rõ thực chất của cổ phần hoá, cần thấy rằng trong công ty cổ phần, trên cơ sở vốn điều lệ được chia ra thành nhiều phần, thì quyền lợi và trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng được phân ra thành những đơn vị có cơ cấu sở hữu. Sở dĩ cổ phần hoá có thể nâng cao hiệu quả hoạt động của các Doanh nghiệp nhà nước là do qua cổ phần hoá, cơ cấu sở hữu của doanh nghiệp đã thay đổi, dẫn tới cơ cấu và cơ chế thực hiện quyền lợi và trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh cũng thay đổi theo, từ đó tạo ra một cơ cấu động lực có chủ thể rõ ràng và hợp lực mới mạnh mẽ hơn; đồng thời chuyển doanh nghiệp sang vận hành theo cơ chế quản lý mới, tự chủ, năng động hơn, nhưng có sự giám sát rộng rãi và chặt chẽ hơn.
    1.2.2. Cổ phần hoá là giải pháp cải cách doanh nghiệp tối ưu ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
    Từ yêu cầu đòi hỏi phải đổi mới các Doanh nghiệp nhà nước, vấn đề cải cách Doanh nghiệp nhà nước từ lâu là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Đã có nhiều giải pháp cải cách được thực hiện. Trong thời gian từ 1960 đến 1990, tức là trước thời điểm thực hiện cổ phần hoá, Đảng và Nhà nước ta đã triển khai nhiều biện pháp nhằm cải tiến quản lý xí nghiệp quốc doanh (Doanh nghiệp nhà nước theo tên gọi lúc đó). Tuy nhiên thực tế cho thấy các giải pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước được thực hiện trước năm 1990 ít mang lại hiệu quả. Vai trò, hiệu quả của Doanh nghiệp nhà nước hầu như không được cải thiện. Tình trạng kém hiệu quả, thua lỗ, tình trạng lãng phí tài sản vẫn là căn bệnh cố hữu của Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta. Nhiều Doanh nghiệp nhà nước đã trở thành bình phong cho những hoạt động kinh tế phi pháp, trốn thuế, lậu thuế, buôn lậu. Có khá nhiều ý kiến khác nhau về những kết quả hạn chế của các biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước đã thực hiện trước đây. Tuy nhiên có thể nhận thấy dễ dàng được thừa nhận khá rộng rãi là Doanh nghiệp nhà nước thực tế không có chủ nhân thực sự. Nhà nước cũng là thực thể trừu tượng. Các cán bộ, công nhân trong Doanh nghiệp nhà nước ít quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp nhà nước nơi mình đang làm việc. Lý do đơn giản là họ vẫn có lương ngay cả khi Doanh nghiệp nhà nước đã bên bờ phá sản. Rõ ràng, vấn đề lợi ích, đặc biệt là lợic ích sở hữu trong Doanh nghiệp nhà nước chính là cội nguồn của những căn bệnh mà chúng gặp phải.
    Cải cách Doanh nghiệp nhà nước có thể tiến hành bằng nhiều cách khác nhau như: bán Doanh nghiệp nhà nước, cho thuê Doanh nghiệp nhà nước, cải cách cơ chế quản lý Doanh nghiệp nhà nước Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một trong những giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả Doanh nghiệp nhà nước. Tuy nhiên thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của nước ta trong thập kỷ vừa qua cho thấy cổ phần hoá là giải pháp phù hợp với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay.
    2. Đối tượng của cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước ở nước ta.
    Cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước là biện pháp cải cách Doanh nghiệp nhà nước tối ưu của nước ta. Tuy nhiên, không phải tất cả các doanh nghiệp đều có thể đổi mới bằng phương thức này. Có những doanh nghiệp mà Nhà nước cần duy trì 100% vốn Nhà nước. Đó là khu vực kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế trên các lĩnh vực sau:
    - Các doanh nghiệp hoạt động nhằm phục vụ cho công tác an ninh và quốc phòng : sản xuất vũ khí, đạn dược, sản xuất thuốc nổ, sản xuất phương tiện phát sóng, truyền tin
    - Các doanh nghiệp đóng vai trò then chốt của nền kinh tế quốc dân, bao gồm các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực : năng lượng, dầu khí, khai thác vàng và đá quý, xây dựng sân bay, bến cảng, đường sắt
    - Các doanh nghiệp thuộc hạ tầng cơ sở như : giao thông, bưu chính, viễn thông, điện, thuỷ nông
    - Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thường bị thua lỗ, lãi ít hoặc gặp rất nhiều khó khăn.
    Theo nguyên tác hạch toán thương mại thì các thành phần kinh tế tập thể, tư nhân không đầu tư vào các lĩnh vực như : vận tải đường sắt, vận tải hàng hoá lên miền núi, ra biên giới, hải đảo, đến vùng kinh tế mới, sản xuất phương tiện cho người tàn tật, đồ chơi cho trẻ em
    Để khắc phục nhược điểm đó của cơ chế thị trường, Nhà nước phải tổ chức các Doanh nghiệp nhà nước để duy trì và phát triển các hoạt động này. Có thể làm việc đó nhờ vào việc tài trợ của Ngân sách Nhà nước cho các doanh nghiệp thua lỗ. Trong trường hợp này, sự tài trợ cho doanh nghiệp là cần thiết, nên không thể coi đó là bao cấp.
    Như vậy, không phải tất cả các Doanh nghiệp nhà nước cần phải đổi mới bằng giải pháp cổ phần hoá, mà chỉ có một bộ phận doanh nghiệp. Bộ phận doanh nghiệp ấy là gì? Căn cứ vào tình hình thực tế ở Việt Nam, Doanh nghiệp nhà nước được chọn lựa cổ phần hoá phải có đủ ba điều kiện sau đây:
    - Là những doanh nghiệp vừa và nhỏ
    - Không thuộc diện những doanh nghiệp cần thiết giữ 100% vốn đầu tư Nhà nước.
    - Có phương án kinh doanh hiệu quả.
    3. Mục tiêu cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước
    Nghị định 44/1998/NĐ-CP ngày 29/6/1998 của Chính Phủ về việc chuyển một số Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần đã nêu rõ: chuyển Doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu:
    - Huy động vốn của toàn xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và nước ngoài để đầu tư đổi mới công nghệ tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước.
    - Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng cường phát triển đất nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế của đất nước.
    Qua những văn bản cơ bản đó có thể khẳng định các mục tiêu của cổ phần hoá đã được xác định một cách rõ ràng và nhất quán. Song phải chăng huy động vốn để phát triển doanh nghiệp là mục tiêu hàng đầu, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy kinh doanh có hiệu quả là mục tiêu hàng thứ, hay hai mục tiêu ở vị trí ngang nhau.
    Cổ phần hoá một bộ phận Doanh nghiệp nhà nước chỉ là một chủ trương lớn của Đảng va Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã nêu rõ: “Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới”.
    4. Tiền đề để cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước.
    - Điều kiện và môi trường pháp lý về cơ bản đã được xác lập đặt tất cả các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường. Việc thực hiện “thương mại hoá” các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế là tiền đề cơ bản và cần thiết để từng bước thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước.
    - Chính Phủ đã nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước và quyết tâm thực hiện. Điều này thể hiện ở việc ban hành các văn bản luật và dưới luật nhăm thực hiện chương trình cổ phần hoá Doanh nghiệp nhà nước như luật công ty, quyết định 315 và 330 về sắp xếp lại sản xuất trong khu vực kinh tế Nhà nước. Chỉ thị 84-TTg của Thủ tướng Chính phủ về thí điểm cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước Ngoài ra còn có các quyết định, thông tư của các Bộ và các liên Bộ để cụ thể hoá việc thực hiện vấn đề này. Điều này góp phần xác định rõ quan điểm và phương hướng chỉ đạo thống nhất ở mọi cấp, mọi ngành cho đến từng doanh nghiệp triển khai thực hiện.
    - Tình hình kinh tế đất nước đã có nhiều biến đổi theo hướng tích cực: giá cả thị trường đã được duy trì tương đối ổn định, mức lạm phát đã được kiềm chế, đồng tiền Việt Nam đã giữ được giá, lãi suất đã ở mức khuyến khích các hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh Điều này đã tạo điều kiện thuận lợi về tâm lý cho mọi người muốn đầu tư thông qua hình thức mua cổ phiếu trong các Doanh nghiệp nhà nước được cổ phần hoá.
    - Nhờ những đổi mới trong chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần của Nhà nước mấy năm qua, thu nhập của dân cư được nâng cao. Số người khá giả ở thành thị và nông thôn ngày càng nhiều. Đây là lượng cầu tiềm năng có thể đáp ứng cho các chứng khoán phát hành ở những doanh nghiệp được cổ phần hoá.
    - Hoạt động trong cơ chế thị trường mới được hai chục năm nhưng đã xuất hiện đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh lớn; người lao động trong các doanh nghiệp đã thích ứng được về ý thức, tác phong và hiệu quả của công việc trong điều kiện cạnh tranh về năng suất, chất lượng và hiệu quả. Điều này sẽ làm cho người đầu tư yên tâm bỏ vốn, góp phần thuận lợi cho việc thực hiện cổ phần hoá các Doanh nghiệp nhà nước.
    II DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA :
    1. Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nước ta hiện nay
    Vai trò của doanh nghiệp Nhà nước gắn với việc tham gia vào hoạt động kinh tế của Nhà nước .Vai trò này thể hiện trên ba khía cạnh :kinh tế ,chính trị ,xã hội .Nội dung ba vai trò này được thể hiện như sau :
    - Là công cụ chủ yếu tạo ra sức mạnh vật chất để Nhà nước giữ vững sự ổn định xã hội điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa
    - Mở đường ,hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển ,thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển nhanh của toàn bộ nền kinh tế .
    - Đảm nhận các lĩnh vực hoạt động có tính chiến lược đối với sự phát triển kinh tế xã hội .Cung ứng các hàng hoá và dịch vụ thiết yếu ,nhất là trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng( giao thông , thuỷ lợi ,điện nước ,thông tin liên lạc,v.v ), xã hội ( giáo dục ,y tế ,v.v ) và an ninh ,quốc phòng .

    2. Thực trạng hoạt động của hệ thống doanh nghiệp Nhà nước
    2.1 Thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước :
    2.1.1 Những thành tựu đạt được:
    Các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) ở nước ta đã có lịch sử hơn 50 năm phát triển và có những đóng góp to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong các giai đoạn lịch sử .Trong những năm gần đây thực hiện đường lối đổi mới của Đảng các DNNN đã không ngừng đổi mới ,sắp xếp tổ chức lại .Số doanh nghiệp đã giảm đi nhiều ,từ hơn 12 000 doanh nghiệp nay chỉ còn hơn 5 000 doanh nghiệp nhưng vẫn là một lực lượng kinh tế mạnh ở nước ta hiện nay :năm 1999 các DNNN làm ra 40,2% GDP trên 50% giá trị xuất khẩu,đóng góp 39,25% tổng nộp ngân sách Nhà nước.
    Từ đầu thập niên 90 Đảng và Nhà nước ta đã thực thi nhiều biện pháp đổi mới cơ chế chính sách để doanh nghiệp tự chủ trong cơ chế thị trường .Từ năm 1991 tới nay Chính phủ đã thực hiện ba đợt sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước. Đợt thứ nhất (1990-1993), đợt thứ hai (1994-1997), đợt thứ ba (1998-nay) trong đó thực hiện việc sáp nhập, giải thể ,phá sản doanh nghiệp Nhà nước yếu kém thua lỗ kéo dài để khu vực Nhà nước có cơ cấu và qui mô hợp lý .Kết quả 3 đợt sắp xếp đổi mới nói trên là tích cực ,hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Nhà nước được tăng lên và không gây hậu quả xấu cho xã hội .Số doanh nghiệp giảm 55% về số lượng chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ do địa phương quản lý. Cơ cấu doanh nghiệp hợp lý hơn có tác động tích cực đến quá trình tích tụ và tập trung vốn ,hình thành và phát triển thêm một số doanh nghiệp mới có công nghệ và trình độ cao hơn ,có sức cạnh tranh tốt hơn .Số doanh nghiệp có vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống đã giảm từ gần 50%( năm 1994) xuống còn 18,2% (năm 2000) ;số doanh nghiệp có vốn trên 10 tỷ tăng từ 10% lên 25%; vốn bình quân của một doanh nghiệp tăng từ 3,3 tỷ đồng lên 22 tỷ đồng. Qua sắp xếp lại khu vực doanh nghiệp Nhà nước phát triển cơ bản tương đối ổn định và góp phần quan trọng cho nguồn thu ngân sách Nhà nước .
    Thực hiện Quyết định số 90/TTg,91/TTg của Thủ tướng Chính phủ và nghị định số39/CP ban hành Điều lệ mẫu và hoạt động của tổng công ty Nhà nước, theo luật doanh nghiệp Nhà nước để năng cao hiệu quả và nhu cầu tập trung phát triển doanh nghiệp vào một số ngành trọng điểm ,then chốt trên cơ sở sắp xếp lại 250 liên hiệp xí nghiệp và tổng công .Sau nhiều lần sáp nhập và chuyển đổi đến nay có 17 tổng công ty 91 và 77 tổng công ty 90 đang hoạt động tập trung vào các ngành then chốt của nền kinh tế .Các tổng công ty Nhà nước có 1 605 công ty thành viên chiếm 28,4% tổng số doanh nghiệp Nhà nước, 65% vốn Nhà nứơc ,61%lao động .Kết quả là :
    2.1.2 Những hạn chế:
    - Đổi mới quản lý Nhà nứoc đối với DNNNchưa đáp ứng được yêu cầu làm rõ và bảo đảm quyền quản lý Nhà nước ,quyền chủ sở hữu của Nhà nước đồng thời tạo điều kiện để DNNNthực sự kinh doanh trong cơ chế thị trường định hưóng xã hội chủ nghĩa.
    - Trong sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước còn nhiều yếu kém .Nhìn chung việc sắp xếp lại DNNNchủ yếu mới là thu gọn đầu mối về mặt số lượng .Cơ cấu và chất lượng còn nhiều tồn tại .Năm 2000 mới có 40% doanh nghiệp hoạt động thực sự có hiệu quả còn lại 31% chưa có hiệu quả khi lãi ,khi lỗ,và 29% liên tục thua lỗ ; qui mô vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới59,82% trong đó có 18,2%vốn từ một tỷ đồng trở xuống .
    III Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là giải pháp cơ bản để đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay
    1 Các quan điểm về cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
    Cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp nhà nước là một chủ trương lớn của Đảng và nhà nước. Nghị quyết hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành Trung ương khoá VII đã nêu rõ: Chuyển một số doanh nghiệp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phấn và thành lập một số công ty quốc doanh cổ phần mới. Phải thí điểm chỉ đạo chặt chẽ rút kinh nghiệm chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp.
    Nghị quyết 10-NQ/ TW ngày 17/3/1995 của bộ chính trị đã nêu: ‘’Thực hiện từng bước vững chắc về tổ chức về cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp không cần nhà nước đầu tư 100% vốn. Tuỳ tính chất loại hình doanh nghiệp mà tiến hành bán tỷ lệ cổ phiếu cho công nhân viên chức làm tại doanh nghiệp để tạo động lực bên trong trực tiếp thúc đẩy phát triển và bán cổ phần cho tổ chức hay cá nhân ngoài quốc doanh’’, Như vậy, nghị quyết của Đảng chỉ ra mục tiêu, đồng thời cũng nêu khái quát hình thức, mức độ và phạm vi thí điểm cổ phần doanh nghiệp nhà nước.
    Thực hiện chủ trương của Đảng; Quốc hội, Chính phủ đã ban hành các văn bản để tổ chức thực hiện cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước.
    2 Tình trạng cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước hiện nay
    2.1 Thực chất của quá trình cổ phần hoá
    - Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước đã khắc phục được tình trạng vô trách nhiệm, ỷ lại và lãng phí của các thành viên trong doanh nghiệp.Bởi vì những chủ thực sự của doanh nghiệp đều có quyền lợi gắn liền với sự thành bại của doanh nghiệp.
    - Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đã tháo gỡ khó khăn trong ngân sách Nhà nước và góp phần xây dưng thị trường vốn lành mạnh phong phú.
    Những năm gần đây, việc đảm bảo nền kinh tế quốc gia vững vàng là một yêu cầu cực kỳ bức thiết, đặc biệt trong hoàn cảnh nền kinh tế không chỉ cần được phân bổ hợp lý, có lợi cho việc tái cơ cấu nền kinh tế quốc dân mà tài sản Nhà nước cũng cần được sử dụng nhằm mang lại hiệu quả đầu tư tối đa. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là giải pháp giúp chính phủ thực hiện được những đòi hỏi thực tiễn trên đây.Tài sản doanh nghiệp Nhà nước nhờ cổ phần hoá thu hồi sẽ được phân bố cho những dự án quốc gia giàu tính khả thi hoặc đầu tư vào những ngành mang lại nhiều lợi ích kinh tế xã hội quan trọng nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.

    2.2 Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam :
    Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 6 thực hiện chủ trương đổi mới quản lý kinh tế của Đảng và Nhà nước là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. ở nước ta đã xuất hiện một số xí nghiệp công ty cổ phần với quy mô nhỏ bé, trình độ thấp nguồn vốn do các xí nghiệp đóng góp và đang trong giai đoạn sơ khai như: công ty xuất nhập khẩu thuỷ sản (Seapr odex), xí nghiệp vận tải biển Hải Phòng, các công ty cổ phần trong lĩnh vực ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh, hàng loạt các công ty liên doanh nước ngoài và công ty cổ phần tư nhân hoá.Từ năm 1992 tới nay đã thực hiện những giai đoan sau :
    + Giai đoàn thí điểm (1992 - 1995 ):
    Trong giai đoạn này Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính phủ ) đã ban hành Quyết định số 202/CT ngày 8/6/1992 về thí điểm chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần và Chỉ thị số 84 về việc xúc tiến thực hành thí điểm CPH DNNN và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với các DNNN. Sau 4 năm thực hiện, triển khai quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84 của Thủ tướng Chính phủ (1992 - 1996) đã chuyển được 5
    + Giai đoạn mở rộng từ năm 1996 đến nay :
    Trong giai đoạn này ta có thể tác thành 2 giai đoạn sau:
    + Giai đoạn từ 5/1996 – 7/1998: Trên cơ sở đánh giá các ưu điểm và tồn tại trong giai đoạn triển khai thí điểm CPH DNNN, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP ngày 7/5/1996 về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần. Nghị định đã xác định rõ mục tiêu, đối tượng thực hiện CPH : quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi cho người lao động trong DNNN và tổ chức bộ máy giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo công tác CPH DNNN. Đồng thời giao nhiệm vụ cho các Bộ, các địa phương hướng dẫn và tổ chức thực hiện. Là giai đầu của thời kì mở rộng công tác CPH từ tháng 5/1996 đến 5/1998 tốc độ CPH đã tăng nhanh hơn.
    + Giai đoạn từ 7/1998 đến nay: Trên cơ sở đánh giá các ưu thế và hạn chế của Nghị định số 28/CP Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/CP ngày 29/6/1998 về vấn đề CPH DNNN thay thế cho các nghị định trước đây.Nghị định này đã xác định rõ và giảm thiểu danh mục ngành nghề Nhà nước cần giữ 100% vốn, Nhà nước nắm giữ cổ phần đặc biệt, cổ phần chi phối, không hạn chế quy mô doanh nghiệp.Hiện nay tính từ năm 1998 đến đầu năm 2002 thì cả nước đã cổ phần hoá trên 800 doanh nghiệp chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ lệ và thị phần chưa cao trong nền kinh tế quốc dân .Nhưng một số vướng mắc cần giải quyết đặt ra là:
    -Tốc độ tiến hành cổ phần hoá còn quá chậm trước năm 1999 cổ phần hoá được 116 doanh nghiệp , năm 1999 cổ phần hoá 249 doanh nghiệp ,năm 2000 là 212 doanh nghiệp ,năm 2002 cả nước mới có trên 800 doanh nghiệp chỉ đạt 38% kế hoạch được giao. Nhưng theo đề án sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước từ năm 2002 đến 2005 các bộ ngành địa phương và các tổng công ty 91 phải cổ phần hoákhoảng 2000 DNNN tức là trung bình mỗi năm phải cổ phần hoá500 doanh nghiệp .Nhưng cả năm 2002 cả nước mới cổ phần được 148 doanh nghiệp .Nghĩa là trong 3 năm còn lại trung bình mỗi năm phải có 600 doanh nghiệp được cổ phần hoá .
    -Việc tiến hành cổ phần hoá không đồng đều giữa các ngành các địa phương .
    -Nhiều mục tiêu cổ phần hóa chưa đạt như mục tiêu huy động vốn của toàn xã hội vào đầu tư phát triển ;mục tiêu tạo điều kiện để người lao động các doanh nghiệp cổ phần có cổ phần ,được mua cổ phiếu với giá ưu đãi .
    2.3 Một số giải pháp thúc đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam:
    2.3.1. Tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước:
    Để tạo ra sự thống nhất cao về quan điểm trong toàn xã hội , tạo điều kiện để các ngành, các cấp yên tâm thực hiện và thực hiện đúng, tránh những lệch lạc thiếu xót không cần thiết. Nhà nước cần có một hệ thống pháp quy đầy đủ và đồng bộ hướng dẫn việc thực hiện cổ phần hoá.
    Việc ban hành các chính sách về cổ phần hoá cần phải được thực hiện sớm, kịp thời và chính xác, tránh việc ban hành vội vàng, sửa đổi nhiều lần gây khó khăn cho việc thực hiện của cấp dưới.
    2.3.2. ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, nhất là ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát.
    Việc ổn định tiền tệ và duy trì sự ổn định đó một cách lâu dài sẽ tạo ra một tâm lý an toàn cho các nhà đầu tư, khuyến khích nhiều thành viên bỏ vốn mua cổ phiếu.
    Hiện nay lượng vốn nhàn rỗi trong dân tương đối lớn theo ước tính, nên các chính sách tiền tệ ổn định và hợp lý sẽ là một biện pháp để huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong mọi thành phần xã hội thì việc đầu tư mua khi cổ tức lớn hơn lãi suất ngân hàng trong trường hợp tỷ lệ lạm phát thấp cổ phiếu sẽ được ưu tiên nhiều hơn.
    2.3.3 Cần sớm hoàn thiện thị trường chứng khoán trong mối quan hệ thị trường vốn, thị trường tiền tệ.
    Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán cổ phiếu và trái phiếu. Thị trường chứng khoán cung cấp nguồn vốn dài hạn cho sự phát triển sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
    Thị trường vốn là nơi diễn ra các hoạt động mua bán chứng khoán và ccs giấy ghi nợ trung và dài hạn. Thị trường vốn cung ứng các nguồn vốn nhàn rỗi vào thời gian cho vay trên một năm để đầu tư dài hạn vào các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
    Trên thực tế ở nước ta hiện nay đã có thị trường chứng khoán .Nhưng hoạt động của nó chưa có khả năng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế quốc dân vì vậy chưa phát huy được tính ưu việt của mình
    Việc hình thành thị trường chứng khoán sẽ tạo điều kiện để mua bán cổ phiếu, thu hút được ngoại tệ thông qua việc bán cổ phiếu cho người nước ngoài. Đồng thời cũng tạo điều kiện cho Nhà nước quản lý vĩ mô thị trường vốn, đánh giá sự phát triển nền kinh tế và đánh giá khả năng kinh doanh của các doanh nghiệp.
    2.3.4. Tạo sự thống nhất trong nhận thức về chủ trương cổ phần hoá.
    Thứ nhất, cổ phần hoá một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước không dẫn đến nguy cơ chênh lệch hướng xã hội chủ nghĩa và làm suy yếu kinh tế Nhà nước. Bởi lẽ:
    Trong cơ cấu kinh tế quốc dân, Nhà nước vẫn nắm giữ các doanh nghiệp thuộc các ngành then chốt, trọng yếu tạo nền tảng cho nền kinh tế quốc dân và sức mạnh của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
    Xét trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế, tài sản Nhà nước không bị suy giảm, mà còn có khả năng gia tăng nhờ lợi tức cổ phần của Nhà nước và sự đóng góp ngày càng tăng của các công ty cổ phần làm ăn hiệu quả.
    Quá trình cổ phần hoá được tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự chỉ đạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
    Thứ hai, cổ phần hoá không làm ảnh hưởng tới quyền lợi và vị trí của mỗi người trong doanh nghiệp nếu họ thực sự có khả năng và có đóng góp tích cực vào hoạt động của doanh nghiệp.
    2.3.5. Tạo sự kích thích mạnh mẽ hơn bằng những ưu đãi kinh tế.
    Nghị định 28/CP đã giành cả chương III để đề cập đến những ưu đãi với doanh nghiệp và công nhân viên chức trong doanh nghiệp cổ phàan hoá. Tuy nhiên một số khoản trong đó cũng là ưu đãi chung cho nhiều doanh nghiệp thông thường khác, hoặc không thể coi là ưu đãi theo đúng nghĩa của nó.Cần có chính sách thoả đáng hơn đối với người lao động trong doanh nghiệp.
    2.3.6. Đối với công tác chỉ đạo thực hiện cổ phần hoá.
    Kết hợp sự chỉ đạo tập trung của Nhà nước và đăng ký tự nguyện của cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp. Căn cứ vào những quy định chung về lựa chọn doanh nghiệp cổ phần hoá và diều kiện cụ thể của ngành và địa phương , các cơ quan Nhà nước tiến hành phân loại các doanh nghiệp Nhà nước trực thuộc. Đó là cơ sở để xác định chương trình cổ phần hoá.Xác định rõ ràng và thống nhất xuyên suốt mọi quy định về cổ phần hoá.
    2.3.7 Đa dạng hoá hình thức cổ phần hoá:
    Muốn thúc đẩy quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước cần sử dụng nhiều hình thức cổ phần hoá. Có thể áp dụng các hình thức sau : Công ty hoá doanh nghiệp Nhà nước, số vốn trong doanh nghiệp Nhà nước được chia làm nhiều phần, Nhà nước giao cho một số cơ quan nắm giữ cổ phiếu của Nhà nước. Các cơ quan này được hưởng quyền lợi, được Nhà nước giao các quyền hạn và chịu trách nhiệm trước Nhà nước theo quy định để quản lý phần vốn đó ; Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển doanh nghiệp; Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp cho một số thể nhân, pháp nhân để thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn ; Doanh nghiệp bán cổ phần cho công chúng để giảm bớt phần vốn của Nhà nước trong doanh nghiệp để tạo thành sở hữu hỗn hợp


    KẾT LUẬN​ Như đã trình bày ở trên thì quá trình cổ phần hoá DNNNmà Đảng va Nhà nước ta đang thực hiện là một bước đi đúng đắn ,tuân theo yêu cầu khách quan cũng như tình hình thực tế của nước ta .Quá trình cổ phần hóa đã diễn ra hơn 10 năm đem lại không ít thành quả giúp vực lại nhiều doanh nghiệp đang làm ăn thua lỗ ,đem lại sức sống mới cho nền kinh tế nước ta trong những năm gần đây .Nhưng còn nhiều doanh nghiệp núp dưới hình thức cổ phần hóa để tránh tình trạng phá sản do đó không mang lại hiệu quả kinh tế ,đóng góp thiết thực cho nền kinh tế .Hoặc có những doanh nghiệp chưa xác định đựơc hướng đi đúng nên chưa tạo ra sức bật cho đơn vị mình .Thành tựu cũng có ,những vướng mắc tồn tại cũng còn nhiều ,do cả nguyên nhân chủ quan và khách quan mang lại .Vì vậy mục tiêu trước mắt của chúng ta vẫn là đẩy nhanh quá trình cổ phần hóa nhằm tới năm 2005 chúng ta sẽ hoàn thành quá trình này .Để đạt được mục tiêu đó thì Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện hệ thống chính sách của mình để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp Nhà nước tích cực,yên tâm tham gia vào Chính sách mà Đảng và Nhà nước ta đang đề ra


    ​ DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ​ 1. Giáo trình Kinh tế chính trị -tập II
    2. Văn kiện,nghị quyết đại hội Đảng lần thứ 8,thứ 9
    3. Các tạp chí :
    .Ngiên cứu kinh tế
    .Kinh tế phát triển
    .Tạp chí cộng sản
    .Tạp chí lí luận
    4.Một số thông tin trên các báo trên địa chỉ http:\www.vinaseek.com
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...