Báo Cáo Cơ hội tiếp cận và thụ hưởng giáo dục tiểu học của cộng đồng dân tộc thiểu số tỉnh Lâm Đồng

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    PHẦN 1: MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài
    Cơ hội (opportunity) là sự kết hợp hài hòa giữa không gian, thời gian (cơ
    bản) cùng với sự tương tác lẫn nhau (nhận thức) giữa khách thể và chủ thể.
    Trước hết, vấn đề cơ hội là vấn đề được đặt ra cho mọi đối tượng trong đời sống
    xã hội. Ai cũng cần có cơ hội, làm gì muốn thành công cũng phải quan tâm đến
    cơ hội. Có cơ hội cho một đời người (chẳng hạn một cuộc tình), có cơ hội cho
    một dân tộc (chẳng hạn một cuộc cách mạng), có cơ hội cho một phi vụ làm ăn
    (trong buôn bán, trong sản xuất). Thậm chí trong những trò chơi cơ hội cũng
    đóng một vai trò quan trọng (một cầu thủ bỏ qua cơ hội sút bóng vào khung
    thàng đối phương). Cơ hội có thể ngắn, có thể dài tùy thuộc vào từng điều kiện
    cụ thể. Tục ngữ Việt Nam có những câu rất hay: Trâu chậm uống nước đục.
    Khi gặp được cơ hội thì Cờ đến tay ai người ấy phất. Không gặp cơ hội thì
    nhiều khi Thất cơ lỡ vận.

    Tuy nhiên trong cơ hội lại thường tiềm ẩn những nguy cơ. Tục ngữ có câu:
    Tham bát bỏ mâm là vì thế. Điều này có nghĩa là tận dụng cơ hội nhưng không
    lường hết hậu quả của nó. Thí dụ, những năm gần đây đầu tư của tư bản nước
    ngoài vào Việt Nam là rất lớn ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau. Đây là một cơ hội
    để đất nước chúng ta phát triển và giải quyết nhiều vấn đề xã hội. Chẳng hạn:
    hàng trăm khu công nghiệp mọc lên tạo công ăn việc làm cho hàng triệu người,
    hàng hóa làm ra dồi dào đáp ứng được nhu cầu của người tiêu dùng, ngân sách
    nhà nước tăng lên, hạ tầng cơ sở có điều kiện để cải tạo và xây dựng mới, nhiều
    thành phố mới được xây, nhiều khu nhà cao tầng xuất hiện. Tóm lại là trong tình
    hình hiện nay chúng ta đang có những điều kiện thuận lợi để vươn lên. Tuy
    nhiên từ đó chúng ta lại phải đối mặt với những nguy cơ lớn: Tiền lương công
    nhân rẻ mạt, doanh nghiệp không đóng bảo hiểm, bãi công, đình công xảy ra
    thường xuyên, và sau đó là nạn thất nghiệp. Chưa hết, nông dân mất đất, dồn
    vào thành phố làm ăn với đủ loại nghề khác nhau: chạy xe ôm, bán vé số, bán
    hàng rong, làm thợ hồ, khuân vác, làm người giúp việc Giới trẻ nông thôn ra
    thành phố làm thuê cho các khu công nghiệp, bỏ đất đai canh tác cho người già
    và trẻ em. Điều quan trọng hơn, lực lượng này mang tâm thức và bản lĩnh nông
    dân vào cuộc sống đô thị. Chúng ta đang nói đến công cuộc đô thị hóa nông
    thôn nhưng chúng tôi lại nghĩ rằng đô thị Việt Nam đang bị nông thôn hóa
    một cách mạnh mẽ. Điều này thể hiện rõ trong hiểm họa ô nhiễm môi trường và
    tai nạn giao thông. Đối với Việt Nam hiện nay, việc nắm bắt cơ hội là cả một
    vấn đề sống còn, đặc biệt là lĩnh vực kinh tế nhưng dự báo được những nguy cơ
    cũng là vấn đề mang ý nghĩa sống còn không kém. Trong xu thế hội nhập của
    đất nước với thế giới ngày nay, cơ hội gắn liền với thông tin và tri thức cùng với
    những dự báo mang tính toàn cầu hoặc ít ra cũng khu vực. Những bài học về
    xuất khẩu cá basa, cá tra, tôm, điều, cà phê, hay lúa gạo hoặc nhập khẩu những
    dây chuyền máy móc, thiết bị những năm gần đây cho chúng ta thấy điều đó.
    Gia nhập WTO, nền kinh tế Việt Nam có điều kiện để phát triển mạnh mẽ nhưng
    cũng đứng trước những thách thức to lớn, đòi hỏi mỗi một thành phần kinh tế,
    mỗi một cá thể trong cộng đồng có tri thức về nó. Có nghĩa là mặt bằng dân trí
    phải được quan tâm đặc biệt.

    Việt Nam có hơn 50 dân tộc khác nhau, trong đó Lâm Đồng có hơn 40 dân
    tộc anh em. Tuy nhiên sự phát triển giữa các dân tộc là không đồng đều, đặc biệt
    dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa. Về cơ bản, các dân tộc thiểu số là ở vùng
    sâu vùng xa nên cuộc sống của họ gắn liền với nghèo đói và lạc hậu. Bởi vậy, cơ
    hội tiếp cận và thụ hưởng giáo dục còn rất hạn chế. Sự tương tác giữa chủ thể
    tiếp cận và khách thể tạo cơ hội chưa mang lại hiệu quả như mong muốn. Chúng
    tôi chọn nghiên cứu đề tài này trước hết là muốn tìm hiểu trong điều kiện hiện
    nay giáo dục tiểu học ở Lâm Đồng thực chất đã phát triển đến mức độ nào. Từ
    đó chỉ ra những bất cập, kiến giải những nguyên nhân. Trong sự gắn kết này
    chúng tôi muốn nâng cao tính thực tiễn của những công trình nghiên cứu khoa
    học đối với địa phương chứ không muốn sau khi nghiệm thu xong chúng rơi vào
    quên lãng với một mớ lý thuyết vô bổ. Đề tài phải được ứng dụng vào đời sống,
    trước hết là một đóng góp thực sự đối với tình hình giáo dục của cả nước hiện
    nay nói chung và của Lâm Đồng nói riêng.



    Thứ tư, cơ hội và nguy cơ thường đi với nhau. Cơ hội tiếp cận và thụ
    hưởng giáo dục của cộng đồng cư dân ở Lâm Đồng là rất tốt nhưng còn tiềm ẩn
    những nguy cơ gì cần dự báo?! Chẳng hạn, nếu không có sự đồng bộ thì đường
    càng tốt tiềm ẩn tai nạn giao thông càng nhiều. Một thí dụ khá sinh động: người
    nông dân ra thành phố, đi trên đường cao tốc như đi trong ngõ xóm hay bờ
    ruộng quê nhà. Đó là một nguy cơ. Một thí dụ khác: một giáo viên rất nhiệt tình
    với nghề dạy học, được đào tạo bài bản về tri thức, nhưng lại không biết tiếng
    dân tộc, không biết gì về văn hóa bản địa nơi anh ta làm việc. Đó là một nguy
    cơ. Thực hiện đề tài này chúng tôi cũng muốn chỉ ra những nguy cơ ấy.

    Từ những tiền đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Cơ hội tiếp
    cận và thụ hưởng giáo dục tiểu học của cộng đồng dân tộc thiểu số tỉnh Lâm
    Đồng
    . Chúng tôi cũng xem đây là một đánh giá độc lập (đánh giá ngoài) đối với
    giáo dục tiểu học Lâm Đồng – một cách đánh giá có ý nghĩa khách quan đã
    được áp dụng phổ biến trên thế giới và ở Việt Nam.

    2. Mục tiêu nghiên cứu
    ư Mô tả thực trạng toàn diện và đầy đủ về điều kiện tiếp cận, thụ hưởng giáo
    dục tiểu học ở tỉnh Lâm Đồng, theo các tiêu chí: cộng đồng dân cư (trong đó
    trung tâm là trẻ em ở độ tuổi tiểu học), địa bàn cư trú, hoàn cảnh gia đình, độ
    tuổi đến trường, điều kiện trường lớp, đội ngũ giáo viên tiểu học Các mô tả
    này không chỉ là những con số thống kê thuần tuý mà sẽ kết hợp với những
    phân tích và đánh giá định tính.
    ư Đánh giá chính sách: Đánh giá các chính sách của chính quyền địa phương
    và của nhà nước để tìm hiểu mức độ, hiệu quả, ảnh hưởng của các chính sách
    đó đối với giáo dục và đào tạo cho các cộng đồng dân cư và những vấn đề lên
    quan.
    ư Đánh giá nhu cầu: Tiếp cận, lắng nghe nhu cầu của người dân chuẩn bị cho
    kế hoạch phát triển giáo dục cho các cộng đồng dân cư trong tầm nhìn trung
    hạn và dài hạn.
    ư Xây dựng và đề xuất các giải pháp để giải quyết những vấn đề có liên quan
    đến cơ hội tiếp cận và thụ hưởng giáo dục tiểu học của các cộng đồng dân cư
    tỉnh Lâm, và xem xét vai trò của hệ thống các trường tiểu học cũng như tập
    thể giáo viên tiểu học trong khu vực.

    3. Phương pháp nghiên cứu
    3.1. Điểm và diện kết hợp
    Phương pháp nghiên cứu của chúng tôi là điều tra cơ bản ở cả hai mặt:
    điểm và diện kết hợp. Về điểm, chúng tôi chọn một trường ở thành phố Đà Lạt
    là trường tiểu học Nguyễn Trãi và những trường ở vùng sâu vùng xa nhất như
    Đồng Nai Thượng (Cát Tiên), Đạ Tong (Đạm Rông), Đinh Trang Thượng (Di
    Linh), Long Lanh (Lạc Dương), Lộc Bắc (Bảo Lâm) là những nơi có đồng bào
    dân tộc thiểu số sống tập trung. Về diện, phổ điều tra của chúng tôi là khá rộng
    về đối tượng cũng như khu vực địa lý. Chúng tôi chọn cả ba vùng: vùng 100%
    dân tộc thiểu số, vùng xen Kinh, vùng thành phố. Đối tượng khảo sát là học sinh
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...