Tiểu Luận Cơ cấu KT nhiều thành phần

Thảo luận trong 'Kinh Tế Chính Trị' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài:Cơ cấu KT nhiều thành phần


    PHẦN MỞ ĐẦU

    Thời kỳ quá độ là thời kỳ mô hình kinh tế tập trung quan niêu, bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả tập trung là cuộc cách mạng kinh tế-xã hội sâu sắc vào cuối những năm 1970 đầu những năm 1980.

    Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ năm của Đảng cộng sản Việt Nam đã đánh giá tình hình đất nước, đặc iệt là trong lĩnh vực kinh tế ,luôn luôn ở tình trạng trì trệ , chậm phát triển, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn, tình hình trì trệ ấy có nguyên nhân khách quan khách quan như nền kinh tế đang gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh lâu dài, viện trợ từ bên ngoài giảm so với thời kỳ trong chiến tranh nhưng nguyên nhân chủ yếu làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội vẫn là mô hình kinh tế không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Chính những khó khăn của đất nước buộc Đảng ta phải suy nghĩ, phân tích tình hình nguyên nhân , tìm tòi các giải pháp , trong đó Đảng ta đã khẳng định sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần, đây là mô hình kinh tế được xây dựng trên cơ sở tổng kết thực tiễn xây dựng CNXH ở nước ta, vận dụng một cách sáng tạo những quan điểm của Lênin về “chính sách kinh tế mới” vào điều kiện lịch sử ở nước ta và thế giới ngày nay, đặc biệt là từ khi Liên Xô và các nước XHCN ở Đông âu sụp đổ.

    Thực hiện mô hình kinh tế mới nhằm mục tiêu căn bản cấp thiết là tăng nhanh lực lượng sản xuất , từng bước cải thiện đời sống nhân dân, tạo cơ sở vật chất và xã hội cho việc từng bước hoá nền sản xã hội.

    Chính trong sự cấp thiết về tầm quan trọng của vấn đề “cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta” mà em đã chọn đề tài “Phân tích cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước ta mà đại hội Đảng IX đã nêu và ích lợi của việc sử dụng nó vào việc phát triển KT-XH ở trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam”.

    Em hi vọng bài viết của em sẽ nhận được sự đánh giá và góp ý của thầy để đề án được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn.

    NỘI DUNG


    I. Cơ sở khách quan của việc tồn tại kinh tế nhiều thành phần và các thành phần kinh tế tồn tại ở nước ta mà đại hội Đảng IX đã nêu trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam.


    I.1 Quan điểm của Lênin:

    Kế thừa những luận điểm của C.Mac và Ph.Ănghen, VI.Lênin đưa ra nhiều luận điểm quan trọng về đặc điểm của thời kỳ quá độ. Có thể nêu thành bốn đặc điểm chung như sau:

    Thứ nhất, thời kỳ quá độ là thời kỳ xét trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội , dều do thành phần không thuần nhất cấu tạo nên. Đó là thời kỳ có sự đan xen , thâm nhập vào nhau giữa CNTB va CNXH, đúng như VI.Lênin đã viết “Ngày nay, chúng ta không thể không đặt vấn đề CNTB nhà nước và CNXH, vấn đề chúng ta cần có thái độ như thế nào trong thời kỳ quá độ; trong thời kỳ này . một mẩu nhỏ CNTB và một mẩu nhỏ CNXH tồn tại cạnh nhau”.

    Thứ hai, đó là thời kỳ, sự phát triển của cái cũ , của những trật tự cũ đôi khi lấn át những mầm mống của cái mới. Lênin cho rằng, những mảnh vụn của trật tự cũ đôi khi chất đống lại một cách nhanh chóng, trong khi đó những mầm mống của cái mới đôi khi lại phát triển chậm chạp và không phải bao giờ cũng thấy rõ ngay được.

    Thứ ba, đó là thời kỳ xét về mọi phương diện, đều có sự phát triển của tính tự phát tiểu tư sản , là thời kỳ chứa đựng mâu thuẫn không thể dung hoà được giữa tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản và tính vô chính phủ, vô kỷ luật của tầng lớp tiểu tư sản.

    Lênin cho rằng , tính tự phát tiểu tư sản là kẻ thù giấu mặt hết sức nguy hiểm và còn nguy hiểm hơn bọn phản cách mạng công khai. Mâu thuẫn giữa tính tự phát tiểu tư sản và tính kỷ luật nghiêm ngặt của giai cấp vô sản là một trong những đặc điểm nổi bật của “giai doạn đặc biệt” , giai đoạn quá độ.

    Thứ tư, đó là thời kỳ lâu dài, có rất nhiều khó khăn phức tạp , phải trải qua nhiều lần thử nghiệm để rút ra những kinh nghiệm, những hướng đi đúng đắn; và trong quá trình thử nghiệm ấy , nói như C. Mac, có thể phải trả giá cho những sai lầm trầm trọng. Lênin đã nhận thức được điều đó khi ông viết: “Còn chúng ta thì biết rằng việc chuyển từ CNTB lên CNXH là cuộc đấu tranh vô cùng khó khăn. Nhưng chúng ta sẵn sàng chịu hàng nghìn khó khăn, thực hiện hàng nghìn lần thử, và khi chúng ta đã thực hiện được hàng nghìn lần thử rồi, thì chúng ta sẽ giữ cái lần thứ một nghìn lẻ một”.

    VI.Lênin còn nhận thấy những nước có nền kinh tế lạc hậu, chẳng hạn như nước Nga có nền kinh tế tiểu nông, khi quá độ lên CNXH càng gặp nhiều khó khăn, phức tạp, càng phải trải qua nhiều bước quá độ , nhiều bước thử nghiệm. Ông nhắc lại nhiều lần quan điểm này vào những năm năm 1918-1921. Chẳng hạn, tháng 10-1921, Lênin đã nói: “Kể từ năm 1917, khi nhiệm vụ nắm chính quyền được đề ra và được những người bạn Bôn-sê-vích nói rõ cho toàn thể nhân dân biết , thì các tác phẩm lý luận của ta đã nhấn mạnh một cách rõ ràng rằng: Tất yếu phải có một thời kỳ quá độ lâu dài và phức tạp từ XHTBCN (xã hội đó càng ít phát triển, thì thời kỳ đó càng dài) . tiến lên xã hội cộng sản chủ nghĩa”.

    * Đặc điểm kinh tế -xã hội:

    Những năm sau cách mạng tháng Mười (trước chính sách kinh tế mới) VI. Lênin có nhiều luận điểm về sự không thuần nhất, sự đan xen giữa CNTB và CNXH trong thời kỳ quá độ . Đặc điểm đó được biểu hiện trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội, nhưng rõ nét nhất là trong lĩnh vực kinh tế. VI Lênin đã định nghĩa danh từ “ thời kỳ quá độ” trong lĩnh vực kinh tế : “Vậy danh từ có nghĩa là gì? Vận dụng vào kinh tế có nghĩa là trong chế độ hiện nay có những thành phần , những bộ phận, những mảnh của cả CNTB lẫn CNXH không ? Bất cứ ai cũng thừa nhận là có. Song không phải mỗi người thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của kết cấu KT-XH khác nhau hiện có ở Nga, chính là ntn. Mà tất cả then chốt của vấn đề lại chính là ở chỗ đó”.

    Như vậy, trước khi có chính sách kinh tế mới, Lênin mới chỉ vạch ra những nét đại thể của thành phần kinh tế phi XHCN , đó là tính tự phát của người tiểu tư hữu; là sự phản kháng ngoan cố của CNTB dưới nhiều hình thức. Nhưng ngay sau khi có chính sách kinh tế mới, cả trong lý luận cũng như trong thực tiễn, Lênin lại thừa nhận có 5 thành phần kinh tế đồng thời tồn tại trong thời kỳ quá độ. Các thành phần kinh tế hoàn toàn mới so với trước là thành phần kinh tế tư bản và thành phần CNTBNN. Lênin đã xếp thứ tự 3 thành phần kinh tế thứ tự như sau: Thứ nhất, kinh tế tư gia trưởng; thứ hai, kinh tế hàng hoá nhỏ; thứ ba, kinh tế tư bản; thứ tư, kinh tế nhà nước TBCN; và thứ năm, kinh tế XHCN.

    Như vậy Lênin đã có sự thay đổi trong việc nhìn nhận về những đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ. Nừu như những năm đầu sau khi mới giành được chính quyền , ông cho rằng sự tồn tại của các thành phần kinh tế phi XHCN là bất đắc dĩ, là những ái chống lại XHCN là phải đấu tranh xoá bỏ chúng, thì đến năm 1921, sau khi đưa ra chính sách kinh tế mới. Lênin nhận thấy sự tồn tại 5 thành phần kinh tế trong thời kỳ quá độ là tất yếu, là hợp qui luật; chúng cần tồn tại trong một thời gian cần thiết.
     
Đang tải...