Thạc Sĩ Chức năng cú pháp của một số vai nghĩa trong câu tiếng Việt

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    TÊN ĐỀ TÀI : Thạc Sỹ Chức năng cú pháp của một số vai nghĩa trong câu tiếng Việt

    PHẦN MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu


    Câu là đơn vị ngôn ngữ được ngôn ngữ học nói chung, ngữ pháp học nói riêng quan
    tâm nghiên cứu từ rất sớm. Ngữ pháp cổ điển cũng như một số khuynh hướng ngôn ngữ học
    hiện đại như cấu trúc luận, ngữ pháp tạo sinh coi câu là đơn vị cấu trúc lớn nhất trong tổ
    chức ngữ pháp của một ngôn ngữ. Theo đó, việc nghiên cứu ngữ pháp thường chú trọng về
    đặc trưng cấu trúc của câu. Nói cách khác, câu chủ yếu được xem xét trên bình diện ngữ
    pháp với các vấn đề như: các thành phần ngữ pháp của câu, các kiểu cấu tạo ngữ pháp của
    câu và các quan hệ ngữ pháp trong câu. Kết quả nhiều vấn đề về câu chưa được giải quyết
    đặc biệt là các vấn đề có liên quan đến nghĩa và hoạt động hành chức của câu.
    Xuất phát từ chức năng giao tiếp và một phần lí thuyết dụng học về sự tương tác ngôn
    từ (phần liên quan đến ngữ pháp), ngữ pháp chức năng không chỉ chú ý đến mặt hình thức
    mà còn chú ý đến mặt nghĩa và mặt chức năng của ngôn ngữ. Với ngữ pháp chức năng, các
    hiện tượng ngôn ngữ đã được các nhà ngôn ngữ học xem xét trên cả ba bình diện: ngữ pháp-
    ngữ nghĩa- ngữ dụng, đặc biệt là mặt ngữ nghĩa.
    Từ khuynh hướng nghiên cứu này, câu không chỉ được coi là đơn vị cấu trúc mà còn
    là đơn vị của ngôn ngữ được con người trực tiếp sử dụng làm phương tiện giao tiếp. Nói
    cách khác, câu không phải là thứ câu trừu tượng mà gắn với tình huống ngữ cảnh cụ thể, đó
    là câu- phát ngôn. Ở đây, câu được xem xét đồng thời trên cả ba bình diện: kết học, nghĩa
    học- dụng học. Bình diện kết học chủ yếu xem xét cấu trúc cú pháp của câu với nhiệm vụ
    trung tâm là xác định các chức năng cú pháp trong câu. Bình diện kết học được xem xét
    trong mối quan hệ chặt chẽ với bình diện nghĩa học của câu. Ngữ pháp chức năng đã cho
    thấy rõ mối quan hệ giữa cấu trúc cú pháp với cấu trúc nghĩa (nghĩa miêu tả) của câu. Đó là
    mối quan hệ giữa một bên là nội dung (cấu trúc nghĩa) và một bên là hình thức (cấu trúc cú
    pháp) của câu. Các chức năng cú pháp của câu thực chất là do các vai nghĩa chi phối khi
    chúng được hiện thực hóa trong câu.
    Gần đây, giới Việt ngữ học đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề vai nghĩa
    trong mối quan hệ với chức năng cú pháp của các thành phần câu và kết quả đạt được tương
    đối khả quan. Một số công trình nghiên cứu bước đầu đã khảo sát và lý giải về mối quan hệ
    giữa vai nghĩa và chức năng cú pháp. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu cũng mới chỉ dừng lại
    ở một số vai nghĩa và chức năng cú pháp tương ứng trong câu. Tiếp thu những thành tựu đó, chúng tôi muốn đi sâu vào tìm hiểu mối quan hệ của vai nghĩa với chức năng cú pháp trong
    câu. Đó là lý do chúng tôi chọn đề tài “Chức năng cú pháp của một số vai nghĩa trong câu
    tiếng Việt” làm đề tài nghiên cứu.
    Việc nghiên cứu đề tài này có các ý nghĩa sau đây:
    - Về mặt lý luận: Tiếp thu những thành tựu nghiên cứu về ngữ nghĩa học cú pháp, đặc
    biệt là cấu trúc nghĩa của câu, tìm hiểu khái niệm vai nghĩa (tham tố của vị từ), chọn một số
    vai nghĩa phổ biến trong cấu trúc nghĩa của câu, miêu tả những chức năng cú pháp ứng với
    các vai nghĩa này.
    - Về mặt thực tiễn: Kết quả của luận văn có thể có giá trị tham khảo về cấu trúc nghĩa,
    cấu trúc cú pháp của câu tiếng Việt. Luận văn có thể góp thêm ngữ liệu cho việc nghiên cứu,
    học tập về ngữ pháp tiếng Việt.

    2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

    2.1. Việc nghiên cứu các vai nghĩa


    Việc nghiên cứu về vai nghĩa có thể nói là được bắt đầu khá sớm. Đầu tiên, chúng ta
    phải kể đến lý thuyết diễn trị của nhà ngôn ngữ học người Pháp L.Tesnière. L.Tesnière được
    biết đến với tác phẩm chính là Elements de syntaxe structurale được xuất bản vào năm 1959.
    Trong tác phẩm này, ông đã đưa ra khái niệm diễn trị (valence) và các khái niệm có liên
    quan khác trong đó có diễn tố (actants) và chu tố (circumstants) vào nghĩa học của cú pháp.
    “Cú pháp dựa trên nghĩa học”(semantically based syntax) của L.Tesnière đã khiến ông trở
    thành một trong những người sáng lập ra lý thuyết diễn trị (valency theory) – cách phân tích
    câu dựa trên cấu trúc nghĩa của các vai (role) [Dẫn theo 44: 4]. Theo ông, “Cấu trúc cú pháp
    của câu xoay quanh vị từ và các diễn tố (actants) làm bổ ngữ cho nó. Chủ ngữ chẳng qua là
    một trong các bổ ngữ đó. Mỗi vị từ biểu hiện “một màn kịch nhỏ”, nó có một diễn trị
    (valence) riêng được thể hiện trong số lượng các diễn tố của nó [Dẫn theo 23: 81]. Các vị từ
    khác nhau cơ bản về số lượng các diễn tố trong vị ngữ. Điều này có nghĩa là dựa trên tiềm
    lực cú pháp- ngữ nghĩa của vị từ để phân loại chúng thành:
    - Vị từ vô trị (avalents) không có diễn tố nào trong câu và vì vậy mà (ngữ đoạn) vị từ
    là phương tiện từ vựng- cú pháp duy nhất biểu hiện sự tình. Ví dụ như vị từ pleut, il pleut
    ‘mưa’ không có diễn tố nào.
    - Vị từ đơn trị (monovalents) có một diễn tố, ví dụ như: tomber ‘ngã’.
    - Vị từ song trị (bivalents) có hai diễn tố, ví dụ như: frapper ‘đánh’.
    - Vị từ tam trị (trivalents) như donner ‘cho’ L.Tesnière đã phân biệt diễn tố và chu tố- cái vẽ nên bối cảnh (setting)- và các chi tiết
    phụ họa (incidental details) của các sự tình mà vị từ miêu tả; vì vậy mà toàn bộ một câu vẽ
    nên một màn kịch nhỏ (mini drama) và diễn đạt trực tiếp một sự tình trọn vẹn. Công trình
    này của L.Tesnière là theo quan điểm cú pháp dựa trên nghĩa học và về nguyên tắc diễn tố do
    vị từ quy định còn chu tố là yếu tố phụ mang tính tiềm năng có trong bất kỳ câu nào, bất
    chấp vị từ với kiểu diễn trị gì đang thực sự chiếm giữ vị trí trung tâm của vị ngữ trong câu.
    Chính vì dựa trên nguyên tắc như vậy mà L.Tesnière đã đơn giản hóa vấn đề: ông khẳng
    định mã hóa diễn tố- cái yếu tố bắt buộc phải đi kèm theo vị từ trong vị ngữ của câu- là danh
    ngữ, còn trạng ngữ mã hóa chu tố- cái yếu tố không bắt buộc phải hiển lộ trong câu. Đây
    chính là hạn chế của L.Tesnière. Nhưng đóng góp của L.Tesnière và những người kế tục ông
    là đã đưa lý thuyết diễn trị mà ông tìm ra những tiềm năng cú pháp ngữ nghĩa khác nhau của
    cùng một vị từ. Ngữ pháp truyền thống trước đó cũng đã nhận ra tiềm năng cú pháp của vị từ
    nhưng lại chỉ phân chia chúng chủ yếu thành ra vị từ ngoại động và vị từ nội động.
    Vấn đề vai nghĩa còn được làm rõ bởi C.J. Fillmore, khoảng trước sau 1970, C.J.
    Fillmore viết một loạt bài trong đó nổi tiếng nhất là bài mang tên “The case for case” (Tác
    dụng của cách) được công bố năm 1968. Trong bài viết của mình, Fillmore chủ trương rằng
    có thể xác định một tập hợp các mối quan hệ giữa một vị từ và các tham tố (arguments) của
    nó. Fillmore làm rõ thuật ngữ cách như sau: “ Đó là những quan hệ ngữ nghĩa- cú pháp
    ngầm, được giả định tạo nên một tập hợp hoàn chỉnh, tồn tại ngầm đối với những ngôn ngữ
    có vĩ tố, và dạng thức cách của các mối quan hệ cách vẫn là sự biểu đạt trong ngôn ngữ có
    thể thực hiện được nhờ những phụ tố, hoặc nhờ các giới từ, hoặc với các cách khác” [Dẫn
    theo 30: 27]. Các mối quan hệ mà Fillmore gọi là quan hệ cách (case relationships) này theo
    ông có tính chất phổ quát và có số lượng hữu hạn. Fillmore đã giới thiệu 6 cách sau:
    - Agentive (Tác cách), chỉ vai chủ thể của hành động do động từ biểu thị.
    - Instrumental (Công cụ cách), chỉ vai công cụ của hành động do động từ biểu thị.
    - Dative (Tặng cách), chỉ vai động vật chịu ảnh hưởng của trạng thái hay hành động do
    động từ biểu thị.
    - Factitive (Hành cách), chỉ vai của vật sinh ra do kết quả của trạng thái hay hành động
    do từ biểu thị.
    - Locative (Vị trí), chỉ vị trí của trạng thái hay hành động do vị từ biểu thị. - Objectice (Đối tượng), là cách trung hòa nhất về nghĩa, chỉ bất kỳ vật gì được biểu
    thị bằng một danh từ mà vai trò trong hành động hay trạng thái được động từ biểu thị được
    chính cách thuyết minh nghĩa của động từ quy định.[Dẫn theo 30: 28]
    Trong các công trình tiếp theo, Fillmore [1971 và 1977] dần bổ sung thêm một số cách
    “cách”, tức là các “vai nghĩa”, khác:
    - Counter- Agent (Lực tác động) là sức mạnh hay sức đối kháng qua đó hành động mà
    vị từ biểu thị được tiến hành.
    - Source (Nguồn) là điểm xuất phát của hành động hay chuyển động.
    - Experiencer (Kẻ thể nghiệm hay Nghiệm thể) tương đương với Cảm thể (Senser) của
    M. A. K. Halliday [1994: 117-119] [Dẫn theo 44: 6-7]
    - Undergoer (Người/Vật trải qua sự biến) tương đương với Processed (Động thể) của
    một số tác giả sau Fillmore.
    Trong suốt thập kỉ 70 và thập kỉ 80 của thế kỷ trước, nhiều công trình nghiên cứu ngữ
    pháp cách (case grammar) khác được biết đến ở một chừng mực nào đó chúng độc lập với
    nhau và độc lập với công trình được coi là đi tiên phong của Fillmore. Trong số những công
    trình này phải kể đến W. Chafe [1970], J.M. Anderson [1971], J.T. Platt [1971], R. E.
    Longacre [1976], M. Clark [1978], W. A. Cook [1978], S.C. Dik [1978], T. Givón [1984] và
    S. Starosta [1988]. Sau đây xin được điểm qua một số bộ vai nghĩa nằm trong các công trình
    của giai đoạn này:
    Đầu tiên là tác giả R. E. Longacre [1976] đưa ra bộ vai nghĩa gồm Experiencer
    (Nghiệm thể), Patient (Đối thể), Agent (Tác thể), Range (Cương vực), Measure (Biện pháp),
    Instrument (Công cụ), Locative (Định vị), Source (Nguồn), Goal (Mục tiêu), Path (Lối đi).
    Công trình nghiên cứu của W. A. Cook [1978] nêu ít vai hơn trong bộ nghĩa của mình,
    gồm: Agent (Tác thể), Experiencer (Nghiệm thể), Benefactive (Lợi thể), Object (Đối thể),
    Locative (Định vị).
    S. Starosta [1988] cũng trình bày một bộ vai nghĩa khác gồm Patient (Đối thể)-một tên
    gọi khác của Object hay theme, Agent (Tác thể), Locus (Địa điểm), Correspondent (Tiếp
    thể)- một tên gọi khác của Dative hay Experiencer, và means (Phương tiện).
    T. Givón [1984: 126-133] trình bày hai loại vai nghĩa trong các câu- các vai nghĩa
    chính (major semantic case- roles) và các vai nghĩa tùy chọn (optional case- roles)- và
    khẳng định “ các vai nghĩa chính bắt buộc xuất hiện trong một số kiểu câu. Nghĩa là sự hiện diện của chúng là quan yếu xét về mặt cú pháp hoặc ngữ nghĩa để giải thích nghĩa cốt
    lõi của vị từ.”
    Dưới đây là bảng tóm tắt những vai nghĩa chính được trình bày trong công trình của
    T.Givón:
    - Agent (Tác thể) chỉ người/ vật chủ ý bắt đầu một sự tình.
    - Dative (Tiếp thể) chỉ tham thể có nhận thức tiếp nhận một sự việc/trạng thái.
    - Patient (Đối thể) chỉ trạng thái hoặc sự thay đổi của trạng thái vô ý thức.
    - Locative (Định vị thể) chỉ một điểm cụ thể so với một vị trí hay sự thay đổi vị trí của
    một tham tố khác trong câu
    Các vai nghĩa tùy chọn của Givón gồm có:
    - Benefactive (Lợi thể) chỉ tham tố có nhận thức được hưởng lợi từ hành động hay sự
    việc do Tác thể khởi xướng.
    - Instrument (Công cụ) chỉ công cụ được Tác thể sử dụng để thực hiện hành động hoặc
    tạo ra sự tình hoặc trạng thái hiện có.
    - Associative (Liên hội thể) chỉ Đồng tác thể (Co- agent) hay Đồng tiếp thể (Co-
    dative) không phải là tiêu điểm chính trong câu.
    - Manner (Phương thức) chỉ kiểu hiện trạng của một sự tình.
    - Time (Thời gian) gồm cả Duration (Thời đoạn), Repetition (sự lặp lại) và Frequency
    (Sự thường xuyên).
    - Purpose (Mục đích) chỉ mục đích của hành động mà Tác thể khởi xướng.
    Trong số các tác giả tiêu biểu phải kể đến S. C. Dik. Trong công trình Ngữ pháp chức
    năng (Functional Grammar) [1978], tác giả đã trình bày khái niệm vị ngữ hạt nhân (nuclear
    predication) và vị ngữ mở rộng (extended predication).
    Theo Dik “Một kết cấu vị ngữ hạt nhân bao gồm một vị từ gắn kết với một số thích
    hợp các ngữ định danh để lắp đầy các vị trí các tham tố của vị từ đó. Kết cấu vị ngữ hạt nhân
    xác định một tập hợp các sự tình, trong đó thuộc tính hay quan hệ của nó được vị từ chỉ định,
    có hiệu lực đối với những ngữ định danh cụ thể mà (với nó) vị từ được ứng dụng.” [14: 39]
    “Căn cứ vào kết cấu vị ngữ hạt nhân xác định một tập hợp các sự tình, chúng ta có thể
    tạo thành một kết cấu vị ngữ mở rộng bằng cách thêm vào một hay nhiều chu tố cho kết cấu
    vị ngữ hạt nhân đó.” [14: 39]
    Cũng theo S.C. Dik [1978], chức năng ngữ nghĩa của chu tố bao gồm:
    - các chỉ định phụ thêm cho sự tình hạt nhân: Phương thức, Đặc trưng, Công cụ; - các quan hệ của sự tình với các tham tố khác: Lợi thể, Liên đới thể;
    - các quan hệ của sự tình trong các chiều kích thời gian: Thời gian, Thời đoạn, Tần số;
    - Các quan hệ của sự tình trong các chiều kích không gian: Vị trí, Nguồn, Phương
    hướng, Lối đi;
    - Các quan hệ của sự tình với các sự tình khác: Chu cảnh, Nguyên nhân, Lý do, Mục
    đích, Kết quả. [14: 40-41]
    S.C. Dik [1978] đã có đóng góp quan trọng trong việc bổ sung hoàn chỉnh hai khái
    niệm lớn trong lĩnh vực “vai nghĩa”: Tham tố bắt buộc (obligatory participants) hay diễn tố
    (actants) và tham tố tùy chọn (optional participants) hay chu tố (circumstants). Đồng thời,
    Dik còn chỉ ra sự chuyển đổi của chu tố thành diễn tố trong một số vị ngữ. Như vậy mối
    quan hệ giữa vị ngữ mở rộng và vị ngữ hạt nhân là mềm dẻo chứ không cố định hay cứng
    nhắc.
    Một đại diện khác là M. A. K. Halliday đã dựa vào mục tiêu chính của ngữ pháp chức
    năng là giải thích ngôn ngữ dựa trên cái mà con người hành xử với sự hỗ trợ chính của ngôn
    ngữ, nghĩa là con người sử dụng ngôn ngữ như thế nào để giao tiếp trong cuộc sống đời
    thường hàng ngày. Ngữ pháp chức năng hệ thống cố gắng đạt được mục tiêu này bằng cách
    chấp nhận một số định hướng mang tính ngữ nghĩa và ngữ dụng cao hơn trong ngữ pháp, tức
    là coi nghĩa học và dụng học như những bộ phận không thể thiếu trong hệ thống tổ chức của
    ngữ pháp. Halliday xử lí vấn đề hệ thống tổ chức của ngữ pháp này bằng cách khẳng định
    rằng ngữ pháp của các ngôn ngữ sẵn có trên thế giới đều được tổ chức nhằm biểu đạt trong
    cùng một câu ba loại nghĩa mà ông gọi là ba “siêu chức năng (metafunctions)”
    [Halliday,1994: 35]: Nghĩa ý niệm (ideational meaning), nghĩa liên nhân (interpersonal
    meaning) và nghĩa văn bản (textual meaning) [Halliday, 1985: 53 và 1994: 34]. Đây là chỗ
    được coi là nổi bật trong ngữ pháp chức năng của Halliday, cái mà ông gọi có tính hệ thống
    (systemic) và vì vậy mà có thể được ứng dụng để miêu tả nhiều, nếu không muốn nói là tất
    cả, ngôn ngữ trên thế giới. Cuốn “Dẫn luận ngữ pháp chức năng” được tái bản lần thứ hai
    năm 1994 của Halliday, có thể nói, đã trình bày bộ vai nghĩa đầy đủ hơn cả so với bộ vai
    nghĩa của các tác giả khác được trình bày ở trên. [Dẫn theo 44: 11]

    2.2. Việc nghiên cứu các vai nghĩa (hay tham tố) trong Việt ngữ học.

    Hai tác giả Trần Trọng Hải [1972] và Nguyễn Đăng Liêm [1973] đều theo quan điểm
    của Fillmore và cùng trình bày “một bộ quan hệ cách” gồm Agentive (Tác thể), Objective
    (Đối thể), Dative (Tiếp thể), Instrument (Công cụ), Benefactive (Lợi thể), Commitative (Liên đới thể), Locative (Định vị), Directional (Hướng), Source (nguồn), Goal (Đích), Extent
    (Phạm vi), và Time (Thời gian). [Dẫn theo 44:12]
    Tác giả M. Clark [1978] đưa ra một bộ vai nghĩa tương tự: đổi một cách tương ứng
    các vai Locative, Directional và Goal, của Trần Trọng Hải và của Nguyễn Đăng Liêm thành
    Locative, Goal và Terminus và thêm vai Path (Lối đi). Đóng góp của Clark [1978: 19] là chỉ
    rõ rằng “hình thái cách” (case form) là một đặc điểm đặc trưng hóa một tập hợp của những
    kiểu đánh dấu cách (case markers), chính là những kiểu hiện thực hóa của các quan hệ cách
    (case relations), và rằng “những kiểu đánh dấu cách trong tiếng Việt là trật tự từ và giới từ”.
    [Dẫn theo 44: 12]
    Chúng ta cũng biết vấn đề nghiên cứu vai nghĩa là vấn đề mới ở Việt Nam nên nó mới
    chỉ được đề cập tới ở một số công trình nghiên cứu gần đây về ngữ pháp chức năng hoặc các
    công trình ngữ pháp có vận dụng tư tưởng của ngữ pháp chức năng. Nhưng theo tác giả Cao
    Xuân Hạo, năm 1983 ông Trương Vĩnh Ký xuất bản cuốn Grammaire de la langue annamite
    đã có đề cập đến vấn đề ngữ pháp cách. Với mục đích giúp người phương Tây hiểu ngữ pháp
    tiếng Việt, ông đã miêu tả cách biểu hiện các quan hệ ngữ pháp trong khung vị ngữ của câu
    bằng những thuật ngữ của các cách tiếng Latin. Các danh từ của tiếng Việt dùng trong câu có
    thể kể ở vào một trong 8 cách, đó là:
    Ý nghĩa cách Phương thức diễn đạt
    1. Nominatif (Danh cách)
    2. Gesnitif (Sinh cách, sở hữu cách)
    3. Datif (Tặng cách, Dữ cách)
    4. Accusatif hay Objectif (Đối cách)
    5. Vocatif (Hô cách)
    6. Ablatif (Tác cách, Ly cách)
    7. Instrumental (Công cụ cách)
    8. Locatif (Vị trí cách)
    Ø- (không đánh dấu)
    của / Ø
    cho
    Ø- (không đánh dấu)
    ớ- bớ
    khỏi- bởi
    bằng
    nơi, trong

    Ông Trương Vĩnh Ký cho rằng “tiếng Việt không có cách hiểu theo nghĩa hẹp như
    tiếng Latin. Vì cách là sự biến hình trong vĩ tố của từ tùy theo cái vai trò mà nó đảm đương
    trong câu; nhưng trong tiếng Việt, cái mà sự biến hình ấy chỉ rõ lại được biểu hiện bằng
    những tiểu tố tiền vị, và dĩ nhiên đó không phải là cách thực sự. Tuy nhiên sự phân chia theo
    từng cách là tiện lợi và chính xác; dù danh từ cách không thích hợp và đúng đắn, song ông vẫn dùng nó theo phép loại suy cho dễ hiểu và định nghĩa cách là những vị trí khác nhau của
    một danh từ tùy theo cái cương vị làm chính hay bổ ngữ cho một từ khác”. Đối với từng
    cách, ông cho biết có thể diễn đạt ý nghĩa của cách ấy bằng những phương tiện gì khác
    phương tiện chủ yếu. Như khi nói về công cụ cách, bên cạnh “Cột bằng dây”, ông còn cho
    “Dùng dây mà cột”, “Lấy dây mà cột”. Điều này cho thấy rằng khi dùng khái niệm cách,
    ông hiểu nó như ý nghĩa ngữ pháp nhiều hơn là một hình thức ngữ pháp. Như vậy ông không
    chỉ gán mô hình ngữ pháp tiếng Latin cho tiếng Việt mà còn hiểu rõ khả năng và cách thức
    sử dụng khái niệm Cách cho những thứ tiếng không biến hình, điều mà gần một thế kỷ sau
    các nhà ngôn ngữ học phương Tây mới nghĩ đến.
    Hạn chế của ông Trương Vĩnh Ký là điều dễ hiểu vì vào thời gian đó người ta chưa
    biết chú ý đến nghĩa của câu, và chưa biết rằng cách là một ý nghĩa phổ quát trong ngôn ngữ
    nhân loại, mà mọi thứ tiếng trên trái đất đều phải có cách diễn đạt và phân biệt. Tuy nhiên có
    thể nói ông Trương Vĩnh Ký là người đi trước các nhà ngôn ngữ học trong việc mô tả các
    phương tiện diễn đạt ý nghĩa Cách trong ngôn ngữ không biến hình xuất phát từ mặt sở biểu
    và được xem là người tiên phong trong việc xây dựng nền Ngữ pháp cách tiếng Việt.
    Tiếp theo phải kể đến tác giả Nguyễn Đức Dân trong công trình nghiên cứu “Mô hình
    ngôn ngữ” [1977] và “Ngôn ngữ học: khuynh hướng- lĩnh vực- khái niệm”[1986], tác giả đã
    giới thiệu một số vấn đề về ngữ pháp cách như sau:
    a. Sự nhầm lẫn của Chomsky khi đem phạm trù ngữ pháp (NP, VP) xếp lẫn với chức
    năng ngữ pháp (trạng ngữ thời gian và nơi chốn).
    b. Fillmore đặt vấn đề cần phải coi trọng hơn nữa những phạm trù sâu không nổi lên
    bề mặt nhưng có thể phát hiện được bằng các thao tác cú pháp. Cơ sở của nó là lý thuyết về
    các cách (The Case for Case).
    c. Thuật ngữ “Cách” và ý nghĩa của nó trong ngôn ngữ.
    d. Hệ thống cách mang tính phổ quát đối với mọi ngôn ngữ gồm có các cách:
    1. Tác nhân (Agent): kẻ hành động, ví dụ : Ba làm vỡ cửa sổ.
    2. Người cảm nhận (Experiencer): kẻ chịu đựng, trải qua một tình huống về tâm lý,
    tình cảm, nó đối lập với tác nhân. Ví dụ: Tôi lạnh.
    3. Công cụ (Instrument): công cụ, nguyên nhân trực tiếp của sự kiện.
    Ví dụ: Tôi dùng dao thái khoai.
    4. Đối tượng (Object): đối tượng chịu tác động.
    Ví dụ: Bé Hai lớn như thổi. 5. Vị trí (Lieu): nơi xảy ra hành động. Ví dụ: Xoa đầu ai.
    6. Gốc (Root): từ điểm đó, nơi đó, người đó mà định hướng đến nơi khác. Ví dụ: Cô
    Ba bán hoa.
    7. Đích (Goal): nơi đó người ta thực hiện hành động.
    Ví dụ: Tâm mắng Ba.
    8. Kết quả (Result): vật nảy sinh nhờ kết quả của hành động.
    Ví dụ: Cô Ba làm bánh.
    9. Thời gian (Time): thời gian xảy ra hành động,. Ví dụ: Mùa đông lạnh.
    Tác giả Nguyễn Đức Dân nhận xét rằng trong công trình 1966, Fillmore còn cho có
    Tặng cách (Datif), nhưng đến năm 1971, ông đã tùy từng trường hợp mà xếp cách Datif vào
    cách Experiencer, cách Object hoặc cách Goal. Fillmore đã đưa ra ba nguyên lý để xác định
    cách, gồm: Chỉ có một thí dụ cho mệnh đề; một động từ có thể có nhiều vai khác nhau; thực
    hiện sự “phân bố bổ túc”.
    e. Phân loại động từ theo cách. Từ cách làm này cho thấy sự đối lập hình thức giữa
    chủ ngữ và vị ngữ không còn nữa, và do đó những bất hợp lý do chúng gây ra cũng bị mất đi.
    Điều này được xem là điểm cống hiến đáng kể nhất về ngữ pháp cách và ngữ nghĩa của
    Fillmore .
    f. Mối quan hệ giữa cấu trúc chìm và cấu trúc bề mặt, và phương pháp chuyển từ cấu
    trúc bề sâu sang cấu trúc bề mặt.
    g. Khả năng ứng dụng của Ngữ pháp cách. [Dẫn theo 30: 101-102]
    Ngoài các công trình nêu trên, có thể kể đến công trình Tiếng Việt- sơ thảo ngữ pháp
    chức năng của Cao Xuân Hạo [1991]. Trong cuốn sách này, từ trang 81 đến trang 96, Cao
    Xuân Hạo đã vẽ lại bức tranh lịch sử nghiên cứu vai nghĩa từ người khởi xướng là L.
    Tesnière [1959], điểm qua những mốc quan trọng với những đóng góp đáng chú ý riêng của
    một số nhà ngôn ngữ gồm C. J Fillmore [1968, 1971 và 1977], D.Ha [1970], Trần Trọng Hải
    [1972], Nguyễn Đăng Liêm [1973], M. Clark [1974 và 1978], S.C. Dik [1978] và M.A.K.
    Halliday [1985]. Có thể nói, tác phẩm Tiếng Việt- sơ thảo ngữ pháp chức năng của Cao
    Xuân Hạo [1991] là công trình đã phác thảo những nét định hướng đầy đủ cho nhiều nghiên
    cứu về sau có liên quan đến ngữ pháp chức năng trong tiếng Việt nói chung và các vai nghĩa
    trong tiếng Việt nói riêng.
    Tiếp theo, có thể kể tên một số công trình tiêu biểu như “Ngữ pháp chức năng tiếng
    Việt- Quyển I- Câu trong tiếng Việt” của tập thể các tác giả Hoàng Xuân Tâm- Nguyễn Văn Bằng- Bùi Tất tươm- Cao Xuân Hạo (chủ biên), “Câu chủ- vị tiếng Việt” của Lê Xuân
    Thại Trong các công trình này, các tác giả trên cơ sở học tập, kế thừa kết quả nghiên cứu
    của một số nhà ngữ pháp chức năng trên thế giới như L. Tesnière, C.J. Fillmore, W. Chafe,
    S.C. Dik đã bước đầu đưa ra một danh sách các vai nghĩa trong tiếng Việt.
    Gần đây, một số công trình ngữ pháp tiếng Việt như Câu chủ- vị tiếng Việt” (Lê Xuân
    Thại), “Thành phần câu tiếng Việt” (Nguyễn Minh Thuyết- Nguyễn Văn Hiệp), “Ngữ pháp
    chức năng (Vị từ hành động)” (Nguyễn Thị Quy), “Ngữ pháp tiếng Việt- tập 2”, “Giáo trình
    ngữ pháp tiếng Việt (theo định hướng ngữ pháp chức năng)” (Diệp Quang Ban) đã thể
    hiện rõ sự vận dụng ngữ pháp chức năng vào việc nghiên cứu, lý giải các hiện tượng ngữ
    pháp với cấu trúc nghĩa (cụ thể là mối quan hệ giữa các chức năng cú pháp và các vai nghĩa).
    Trong “Câu chủ - vị tiếng Việt” [44], Lê Xuân Thại đã xác định được các vai nghĩa có
    thể đứng vị trí chủ ngữ trong câu tiếng Việt: 1. Kẻ hoạt động, 2. Đối tượng của hoạt động, 3.
    Kẻ tiếp nhận, 4. Công cụ của hoạt động, 5. Vị trí. Tác giả Lê Xuân Thại cũng cho rằng việc
    các vai nghĩa trên (trừ vai kẻ hoạt động) đứng ở vị trí chủ ngữ thì “kéo theo sự thay đổi ý
    nghĩa và cấu tạo của vị ngữ so với vị ngữ khi kẻ hoạt động đứng làm chủ ngữ và cũng từ đó
    mà ý nghĩa của câu cũng có chỗ thay đổi”. [44: 152]
    Nguyễn Thị Quy [41] do chỉ giới hạn trong phạm vi vị từ hành động tiếng Việt nên
    chỉ xem xét một số tham thể như: đối tượng bị tác động, đích, nơi chốn, thời gian, người
    hưởng lợi, công cụ, người hưởng lợi, công cụ, người tiếp nhận.
    Tác giả Hoàng Văn Vân, với tác phẩm Ngữ pháp kinh nghiệm cú tiếng Việt mô tả theo
    quan điểm chức năng hệ thống [2005], đã thuyết minh cho quan điểm mà Halliday [1985 và
    1994] tự hào gọi là “hệ thống tính” trong cách phân tích ngữ pháp của các ngôn ngữ trên thế
    giới dựa trên quan điểm chức năng, đặc biệt là cách phân tích câu. Theo Hoàng Văn Vân
    [2005], các vai nghĩa sau đây có trong tiếng Việt: Hành thể, Đích thể, Lợi thể, Tiếp thể,
    Khách thể, Khiến thể, Cảm thể, Hiện tượng, Đương thể, Thuộc tính, Tạo thuộc tính thể, Giá
    trị, Biểu hiện, Bị đồng nhất thể, Đồng nhất thể, Hiện hữu thể, Phát ngôn thể, Tiếp ngôn thể,
    Đồng nhất thể, Hiện hữu thể, Ngôn thể, Dung môi, Cương vực, Ứng thể, Chu cảnh gồm
    Phạm vi, Định vị, Phong cách, Nguyên nhân, Đồng hành, Vấn đề, Vai diễn và Quan điểm.
    Nguyễn Thị Ảnh [2002], không giống Hoàng Văn Vân, chỉ tìm hiểu những vai nghĩa
    có thể làm Đề trong câu tiếng Việt và tiếng Anh để so sánh chúng với nhau. Theo tác giả này
    “sự khác biệt, cái làm nên nhu cầu đối chiếu, được thể hiện chủ yếu ở sự khác biệt của Đề.
    Với phần thuyết sự khác biệt này dường như không đáng kể”; do đó luận án của Nguyễn Thị Ảnh “bỏ qua việc thảo luận về phần Thuyết và xem đối chiếu cấu trúc Đề- Thuyết trong câu
    tiếng Việt dựa trên khảo sát và kết quả nghiên cứu phần Đề”. Theo Nguyễn Thị Ảnh [2002],
    các vai nghĩa sau đây có thể làm Đề trong câu tiếng Việt: Tác thể, Hành thể, Lực, Động thể,
    Nghiệm thể, Đương thể, Đối thể, Mục tiêu, Tiếp thể, Đích, Nguồn, Công cụ, Thời gian, Nơi
    chốn, và Điều kiện.
    Cao Xuân Hạo, Hoàng Dũng và Bùi Mạnh Hùng [2003] nêu lên 22 vai nghĩa cần phân
    biệt hơn cả mà học sinh trung học cơ sở tại Việt Nam phải nắm cho được: Người hành động,
    Người tác động, Lực tác động, Người thể nghiệm, Người/vật trải qua sự biến, Người/vật bị
    tác động, Vật tạo tác, Người/vật mang trạng thái, Người nhận, người hưởng lợi, nơi chốn,
    Đích, Hướng, Nguồn, Lối đi, Phương thức, Công cụ, Thời gian, Khoảng cách không gian,
    Nguyên nhân, Điều kiện, Trở ngại và Người/vật tồn tại. Việc trình bày của các tác giả trong
    tiểu mục này là chỗ dựa hết sức quan trọng và đáng tin cậy để chúng tôi đi vào nghiên cứu
    một số vai nghĩa trong luận văn này.
    Việc nghiên cứu vai nghĩa gần đây ở Việt Nam cũng được một số tác giả quan tâm.
    Tác giả Nguyễn Thị Lương, trong cuốn “Câu tiếng Việt”[2006], đã nghiên cứu câu từ góc độ
    ba bình diện: ngữ pháp- ngữ nghĩa- ngữ dụng. Và theo đó, ở bình diện ngữ nghĩa, tác giả đã
    vận dụng lí thuyết vị tố- tham thể của ngữ pháp chức năng và lý thuyết hành động nói để
    nghiên cứu hai thành phần tạo nên nghĩa tường minh của câu: nghĩa miêu tả và nghĩa tình
    thái. Tác giả đưa ra khái niệm nghĩa miêu tả của câu “là nghĩa biểu hiện sự vật, việc, hiện
    tượng (gọi chung là sự tình) trong thực tế khách quan được phản ánh vào trong câu, qua lăng
    kính chủ quan của người nói (viết) ” [38:133]. Với việc tìm hiểu tìm hiểu cấu trúc nghĩa
    miêu tả, phân loại các thành tố trong cấu trúc nghĩa miêu tả. Đặc biệt là tác giả đã chỉ ra mối
    quan hệ của cấu trúc vị tố- tham thể với cấu trúc ngữ pháp của câu. Đồng thời tác giả cũng
    đã đề cập đến vai nghĩa của các thành phần: chủ ngữ, trạng ngữ , bổ ngữ, khởi ngữ. Đây
    cũng là gợi ý và chỗ dựa quan trọng cho những vai nghĩa được chọn trong luận văn.
    Tác giả Nguyễn Văn Hiệp, trong cuốn “Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp” [2008]
    cũng đã đưa cả chương 2 để nghiên cứu, tìm hiểu về nghĩa miêu tả. Đầu tiên là việc tìm hiểu
    cấu trúc vị từ - tham thể của câu dựa vào việc điểm lại ngữ pháp của Tesnière, về khái niệm
    vị từ. Đặc biệt là việc định nghĩa vai nghĩa từ quan điểm của Fillmore (1968), đưa ra danh
    sách các vai nghĩa của Fillmore và danh sách các vai nghĩa cơ bản được hầu hết các nhà
    nghiên cứu thừa nhận. Hơn thế nữa, tác giả cho thấy sự thể hiện hình thức của vai nghĩa và đánh dấu các vai nghĩa, phân loại các kiểu sự tình, sự đồ chiếu của cấu trúc vai nghĩa lên cấu
    trúc cú pháp.
    Ngoài ra vấn đề vai nghĩa cũng được trình bày rải rác trong các bài viết trên tạp chí
    Ngôn ngữ: Vai nghĩa phương tiện và các chức năng ngữ pháp của nó trong câu tiếng Việt
    (Lê Thị Lan Anh- Ngôn ngữ số 4, 2002); Tìm hiểu chức năng ngữ pháp và vai trò thông báo
    của vai nghĩa thời gian trong câu tiếng Việt (Bùi Thị Thanh Lương- Ngôn ngữ số 4, 2002);
    Phương pháp nhận diện vai nghĩa của các tham thể trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu
    với vị từ đa trị như cho, tặng, gửi (Lâm Quang Đông- Ngôn ngữ số 7, 2006).
    Điểm qua các công trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy các nhà ngôn ngữ học đã
    đưa ra danh sách các vai nghĩa. Tuy vậy, đó vẫn là một danh sách hiện nay còn để ngỏ. Đồng
    thời việc tìm hiểu các vai nghĩa trong cấu trúc nghĩa biểu hiện của câu tiếng Việt cũng mới
    chỉ nghiên cứu ở việc phân tích phân loại các vai nghĩa chủ yếu trên bình diện ngữ nghĩa mà
    còn ít công trình chuyên sâu về mối quan hệ của các vai nghĩa và chức năng cú pháp của nó
    khi được hiện thực hóa trong câu. Vì vậy, cần có những công trình đi sâu nghiên cứu về chức
    năng ngữ pháp của vai nghĩa trong câu tiếng Việt.

    3. Nhiệm vụ của luận văn

    Luận văn này có những nhiệm vụ cụ thể như sau:
    - Trình bày khái niệm về vai nghĩa, chức năng cú pháp, mối quan hệ giữa vai nghĩa và
    chức năng cú pháp.
    - Điểm qua danh sách các vai nghĩa, chọn một số vai nghĩa phổ biến trong khung vị
    ngữ (vai nghĩa đối thể- patient; vai nghĩa tạo thể - factitive; vai nghĩa vị trí - locative; vai
    nghĩa nguồn – source; vai nghĩa phương thức – manner).
    - Tìm hiểu, miêu tả chức năng cú pháp tương ứng với những vai nghĩa (đã chọn) trong
    câu tiếng Việt (qua ngữ liệu tiếng Việt).

    4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu

    4.1. Phương pháp nghiên cứu:


    Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng một số các thủ pháp và phương pháp
    nghiên cứu khoa học chung như:
    - Thu thập, phân loại tài liệu
    - Khảo sát, phân tích tài liệu
    Ngoài các thủ pháp như trên, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
    ngôn ngữ học sau: - Phương pháp phân tích ngữ nghĩa, cú pháp
    - Phương pháp thống kê
    - Phương pháp miêu tả

    4.2. Nguồn ngữ liệu:

    Nguồn ngữ liệu chủ yếu được thu thập từ các tác phẩm văn học, các giáo trình nghiên
    cứu ngữ pháp- ngữ nghĩa tiếng Việt, từ điển tiếng Việt.

    5. Bố cục của luận văn

    Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung chính của luận văn được phân thành hai chương:

    Chương một: Những cơ sở lý thuyết
    Trong chương này, luận văn sẽ trình bày khái niệm vai nghĩa theo các nhà ngôn ngữ
    trên thế giới và các nhà Việt ngữ học; những vai nghĩa phổ biến trong khung vị ngữ; cấu trúc
    cú pháp và một số chức năng cú pháp của câu; cấu tạo ngữ pháp của chu tố và diễn tố; mối
    quan hệ giữa vai nghĩa với chức năng cú pháp của câu.

    Chương hai: Một số vai nghĩa với chức năng cú pháp của nó trong câu tiếng Việt
    Ở chương hai, luận văn miêu tả chức năng cú pháp của một số vai nghĩa: vai đối thể;
    vai tạo thể; vai phương thức; vai nguồn; vai vị trí- không gian


    [​IMG]


     
Đang tải...