Tiểu Luận Chủ nghĩa duy lý tư biện phương tây thời cận đại và những giá trị hạn chế của nó

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI MỞ ĐẦU






    Muốn hiểu rõ giá trị của triết học Descartes không gì bằng đem học thuyết ấy đặt vào trong tiến trình chung của lịch sử triết học. Khi so sánh nó với những hệ thống triết học khác trong sự phát triển của tư tưởng nhân loại, chúng ta sẽ thấy rõ những đóng góp và hạn chế của nó.

    Nhà triết học có ảnh hưởng lớn đến R.Descartes là Aristotle. Chính Aristotle đã đem lại cho ông niềm tin ở lý trí con người. Những nguyên tắc nền tảng để xây dựng phương pháp nghiên cứu, ông cũng đã mượn của Aristotle. Cái vũ trụ quan trọng làm nền móng cho triết học siêu hình của ông cũng lại là một công trình sáng tạo của Aristotle. Chính vì vậy, khi đọc các tác phẩm của Descartes, chúng ta cần hiểu rõ địa vị thiết yếu đặc biệt của "Nguyên tắc đồng nhân” cái được coi là "tinh hoa" trong triết học Aristotle, và cũng có thể coi là “tinh hoa" của hầu hết các trường phái triết học xưa nay.

    Coi vũ trụ là đồng nhất, Aristotle đã đặt niềm tin ở lý trí con người. Ông cho rằng một khi trời đất đã không thay đổi, hay ít ra đã có những bản thể không thay đổi, thì do đó, con người có quyền hy vọng tìm được chân lý, miễn là khi suy luận tránh được những sự mâu thuẫn. Để tìm được những kết quả đồng nhất, Aristotle đã đưa vào trong hệ thống triết học của ông phép tam đoạn luận. Áp dụng nó vào việc nghiên cứu vũ trụ và xã hội, ông đã để lại cho đời sau những cống hiến khoa học lớn lao.

    Nhưng tiếc thay, cái "tinh hoa" quý giá do Aristotle truyền lại ấy chẳng bao lâu đã bị chìm đắm vì Giatô giáo. Trong hơn một nghìn năm, Châu Âu cúi đầu phục tùng nền tư tưởng huyền bí có cội rễ trong Kinh thánh. Những cống hiến khoa học trong triết học Aristotle đều phải hứng chịu sự phê phán của sức mạnh niềm tin tôn giáo. Với ý đồ xoay hẳn triết học về một hướng khác, tôn giáo đã pha trộn học thuyết duy lý của Aristotle với những lời dạy của Kinh thánh thành một mớ giáo lý huyền bí, viển vông, độc đoán, vừa viện đến lý trí, vừa dựa vào lòng tin, lấy linh hồn để giảng nghĩa thân thể, lấy tinh thần để chứng thực vật chất, nâng nguyên tắc đồng nhất và tam đoạn luận lên thành mục đích tối cao của triết học mà không coi đó là phương pháp. Bằng cách đó, tôn giáo đã kìm hãm tư tưởng trong giáo đường, hạ lý trí xuống thành tôi tớ cho lòng tin mù quáng và huyền bí, đem tôn giáo vào tất cả những lĩnh vực hoạt động của trí tuệ.

    Song, đến thế kỷ XVI, các giáo lý tôn giáo ấy ngày càng ít có ảnh hưởng đến cuộc sống thường ngày và đời sống kinh tế xã hội. Một cuộc cách mạng lớn trong đời sống tinh thần, trong tiến trình phát triển tư tưởng nhân loại đã diễn ra.

    Phản ánh cuộc cách mạng ấy về tinh thần là phong trào mà người ta gọi là cuộc Phục hưng. Tư tưởng bị lung lay mạnh, con người bừng tỉnh giấc mơ phong kiến và hoảng hốt đi tìm những chân lý mới. Khoa học rời bỏ giáo đường để tìm vào những tư gia. Các nhà thông thái đầu tiên, những ông thầy thuốc có học đã nhận thấy không thể đem linh hồn để giảng nghĩa cho vật chất, rằng thế giới vật chất có những quy luật riêng của nó. Không cần đến tam đoạn luận, không dùng đến Kinh thánh, người ta mò mẫm tìm kiếm những điều bí ẩn trong tự nhiên. Từ Car-dan, Ferrari, Neper . số học tiến hoá nhanh chóng lạ thường. Với những phát minh khoa học mới, nhiều quan niệm trước đây bị lật nhào, chẳng hạn như quan niệm về trái đất và bầu trời trong Kinh thánh, về cơ thể động vật, cách tổ chức của thực vật trong sinh học. Ngay trong giáo đường cũng có sự chia rẽ. Năm 1520, giáo sĩ người Đức - Lutther đã sáng lập nên phái Giatô cải cách để chống lại những điều phi lý của nhà thờ.

    Thế kỷ XVII, trong những năm đầu tiên, người ta đã được chứng kiến cuộc thái bình. Thái bình trở lại, thì tư tưởng con người cũng thay đổi nhiều. Nhưng phát minh của các nhà khoa học vẫn tiếp tục nở rộ, đáng chú ý nhất là các phát minh của Giatô. Trong bối cảnh ấy, triết học của R.Descartes đã ra đời và phát triển. Trong hệ thống triết học Descartes, chúng ta thấy, khởi điểm của phương pháp, cũng như của siêu hình học là niềm tin không bờ bến vào giá trị của những khoa học. Hệ thống triết học ấy được R.Descartes triển khai theo hai khuynh hướng: khuynh hướng chịu ảnh hưởng của tư tưởng Giatô giáo và khuynh hướng chịu ảnh hưởng của những phát minh khoa học mới.

    R.Descartes được nuôi dạy trong hệ thống triết học kinh viện, ngay từ nhỏ đã được hít thở cái siêu hình học bị pha trộn của Aristotle, song lại phải khép nép sống dưới bóng cây thập giá, do vậy, ông đã không dám (hay không biết thì đúng hơn .) thoát ra khỏi hệ tư tưởng ấy. Chính vì vậy, mặc dù những tư tưởng của ông có táo bạo đến đâu, cũng chỉ là táo bạo trong phạm vi do người xưa đặt sẵn. Ông muốn bước sang những chân trời mới, nhưng không biết đi về hướng nào, bởi phía nào cũng thấy bị chặn bởi nhưng lời dạy trong Kinh thánh. Và do vậy để bảo vệ giá trị khoa học, R.Descartes chỉ còn biết tin vào Thượng đế. Đề lý giải mọi sự thay đổi, ông viện đến nguyên tắc nhân quả - một biến thể của luật đồng nhất. Để tìm nguyên nhân vũ trụ, ông đưa ra những ý niệm về vô hạn.

    Như vậy, có thể nói, triết học của R.Descartes vừa là siêu hình học, vừa là vật lý học. Những lập luận có tính xác thực và khoa học của ông luôn pha lẫn với sự diễn địch trừu tượng. Vì thế đã có người coi hệ thống triết học của ông là hệ thống đứng giữa ngã ba đường.

    Tuy nhiên, không phải vì thế mà trong hệ thống triết học của R.Descartes không có những viên ngọc quý. Ngược lại, đó là một hệ thống được tạo nên với nhiều viên ngọc quý.

    Viên ngọc quý nhất trong hệ thống triết học Descartes là niềm tin vô tận vào lý trí, khoa học và những phương pháp mới. Với niềm tin ấy, ông tỏ rõ thái độ chán ghét những cuộc cãi vã viển vông và sai lầm của các môn phái cũ. ông muốn triết học phải rõ ràng và xác thực. Do chưa phân biệt rõ triết học với các khoa học khác như chúng ta ngày nay nên ông chủ trương xây dựng một phương pháp chung cho tất cả các lĩnh vực hoạt động của trí tuệ.

    Thật ra, hơn hai nghìn năm về trước, Aristotle cũng đã có niềm tin ấy - niềm tin ở lý trí. Triết học Aristotle là một thứ triết học duy lý với nhiều cái hợp lý. Nhận thấy điều đó R.Descartes chủ trương đưa triết học trở về với hệ thống triết học do Aristotle tạo ra. Khi phê bình R.Descartes, nhà triết học Đức - Hêgen cho rằng R.Descartes là người đã sáng lập ra nền triết học Cận đại xét về phương diện lấy tư tưởng làm căn bản. Anh hưởng của nhà triết học này trong thời đại của ông và trong nhưng thời đại mới là hết sức lớn lao. Ông là một bậc anh hùng, có công xây dựng lại triết học từ đầu và đem lại cho nó một vị thế xứng đáng, làm cho nó trớ về với vị thế ấy sau khi đã lầm lạc hàng nghìn năm đó là vị chế của lý tính thuần tuý.

    Do trình độ khoa học thời bấy giờ, R.Descartes mới chỉ nhìn thấy vai trò của phương pháp số học. Ông đề cao tính cụ thể, chặt chẽ, rõ ràng của các lý thuyết, quy luật số học và cách thức mà nó điều khiển các con số. Và do vậy, ông hy vọng mở rộng các lý thuyết, quy luật và phương pháp đó sang việc nghiên cứu những hiện tượng diễn ra trong trời đất và trong tâm lý con người.

    Viên ngọc quý thứ hai mà R.Descartes để lại cho đời sau là những nguyên tắc cơ bản của phương pháp. Sau Bacon, R.Descartes đã tìm cách xây dựng một hệ thống phương pháp luận mới làm nền tảng cho sự phát triển của khoa học. Ông chủ trương xây dựng môn "logic dạy cách vận dụng lý tính một cách tốt nhất nhằm nhận thức những chân lý" mà con người còn chưa tìm ra. Đặc biệt đề cao vai trò của lý tính, phương pháp luận của ông hướng tới hoàn thiện và phát triển khả năng trí tuệ của con người, thúc đẩy nhận thức khoa học phát triển. ông cho rằng một ai đó "dù đi rất chậm, nhưng nếu anh ta đi đường thẳng, vẫn có thể vượt xa so với những ai mặc dù chạy nhưng lai không đi theo con đường thẳng ấy".

    Những nguyên tắc cơ bản của phương pháp luận Descartes là : Thứ nhất, chỉ được coi là chân lý những gì được cảm nhận một cách rõ ràng, hiển nhiên, không chút nghi ngờ. Thứ hai khi nghiên cứu bất cứ sự vật nào cũng phải chia nó thành các bộ phận và nhận thức các bộ phận ấy. Thứ ba, trong nhận thức phải xuất phát từ cái đơn giản đến cái phức tạp hơn. Thứ tư, không được bỏ sót một dữ kiện nào trong quá trình nhận thức.

    Tin ở lý trí, lại biết dùng lý trí đó nên trong siêu hình học Descartes, người ta đã tìm thấy một viên ngọc quý thứ ba - đó là quan niệm của ông về vật chất. Ông cho rằng cái vật chất đã vượt ra ngoài phạm vi của cái tâm lý. Song, vì chưa thoát ra khỏi ảnh hưởng của tôn giáo, chưa dám và cũng không thể bác bỏ những giáo lý trong Kinh thánh để nói rằng cái vật chất có ảnh hưởng đến cái tinh thần, quyết định cái tinh thần, nên ông chỉ mới phân biệt linh hồn với thể xác. ông cho rằng thế giới vật chất là một thế giới riêng biệt và nó chỉ tuân theo những luật của vật chất, và do vậy, nhưng ai muốn nghiên cứu vũ trụ thì cần phải rời bỏ hết những thành kiến của linh hồn. Điều đó cho thấy, cơ giới luận theo khuynh hướng duy linh luận của R.Descartes có chứa những mầm mống duy vật, hay ít ra cũng là một miếng đất tốt cho nhưng mầm mống ấy mọc lên.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...