Tài liệu Chủ đề : Phật Giáo

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Phật giáo Việt Nam Phật giáo Việt Nam là Phật giáo được bản địa hóa khi du nhập từ Ấn Độ và Trung Quốc vào Việt Nam, Phật giáo Việt Nam mang những đặc điểm khác biệt so với Phật giáo nguyên thủy và Phật giáo của các nơi khác trên thế giới.
    Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất ở Việt Nam. Số lượng tín đồ Phật tử xuất gia khoảng 3 triệu người, số thường xuyên đến chùa và tham gia các Phật sự khoảng 10 triệu người, số người chịu ảnh hưởng của Phật giáo lên đến vài chục triệu người.
    Người sáng lập Phật giáo là Siddhartha Gautama. Ông sinh năm 563 trước Công Nguyên tại Kapilavastu. Là hoàng tử của nhà vua Satđođana, nước Capilavatu. Năm 29 tuổi, Siddhartha bỏ cung điện, bỏ cuộc sống giàu sang và gia đình để đi tìm cho mình một con đường giải thoát. Năm 35 tuổi, Siddhartha nghĩ ra được một cách giải thoát. Từ đó ông được gọi là Buddha nghĩa là giác ngộ. Về sau các đệ tử tôn xưng ông là Sakia Muni (Thích ca Mâu ni). Quãng đời còn lại, Phật đi các nơi để truyền bá học thuyết của mình. Năm 80 tuổi Phật qua đời.
    Học thuyết phật giáo là chân lý về nỗi đau khổ và sự giải thoát con người khỏi nỗi đau khổ. Chân lý ấy được thể hiện trong tứ diệu đế:
    Khổ đế
    Tập đế
    Diệt đế
    Đạo đế
    Nội dung cơ bản của học thuyết Phật giáo là thuyết thập nhị nhân duyên. Nhân là nguyên nhân gây ra sự vật. Duyên là những mối quan hệ, những điều kiện, những ảnh hưởng chung quanh giúp cho nhân phát khởi vận hành . Đạo Phật khái quát lại thành 12 nhân duyên. Đó là một chuỗi liên tục các nguyên nhân giam hãm con người trong vòng sinh tử luân hồi.
    Như vậy đặc điểm nổi bật nhất của Phật giáo nguyên thủy là không chấp nhận thần linh, chủ trương vô thần nhưng là duy tâm chủ quan
    Sau khi Phật tổ qua đời, Đại hội Phật giáo lần thứ nhất được triệu tập vào cuối thế kỉ V trước Công nguyên. Kinh điển của Phật giáo đã được biên soạn gồm hai nội dung chính là Pháp và Luật. Pháp là những lời thuyết giáo của Phật được chép lại theo kí ức các đệ tử. Luật là quy chế do Đại hội thảo ra. Một trăm năm sau Đại hội lần thứ hai được triệu tập. Số đông tín đồ đòi chữa lại luật, họ bị đại hội trục xuất nên đã thành lập một phái riêng là phái đại chúng bộ. Chính phái này là tiền thân của phái Đại thừa sau này. Đến thế kỉ III trước CN, Đại hội lần thứ III được triệu tập để chấn chỉnh tổ chức và giáo lý của mình. Thời kì này là thời kì phát triển nhất của Đạo Phật ở Ấn Độ. Đến thế kỉ I trước CN, Đại hội Phật giáo lần thứ IV được triệu tập. Đại hội này đã thong qua giáo lý phật giáo cải cách và được gọi là phái đại thừa để phân biệt với phái Phật giáo cũ gọi là phái Tiểu thừa. Sự khác nhau giữa hai phái được biểu hiện ở hai mặt sau:
    Thứ nhất, phái Tiểu thừa cho rằng những người xuất gia đi tu mới được cứu vớt nhưng phái Đại Thừa lại cho rằng không chỉ có người tu hành mà cả những người quy y theo Phật cũng được cứu vớt và ai cũng có thể thành Phật
    Thứ hai, phái Tiểu Thừa quan niêm Niết bàn là cảnh giới yên tĩnh gắn với sự giác ngộ tức là hư vô trong khi đó phái Đại Thừa quan niệm Niết bàn cũng như thiên đường cũng là nơi cực lạc và đối lập với thiên đường là địa ngục.
    Đạo Phật được truyền sang Châu Á bằng hai đường :
    Đường bộ từ phía đông Ấn Độ lên phía tây bắc Ấn Độ vào Trung Á rồi vòng sang phía đông ra Đông Á
    Đường biển đến Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo.
    Trong những di tích liên quan đến nền văn hóa Óc Eo người ta đã thấy sự hiện diện của cả hai tôn giáo: Ấn Độ giáo và Phật giáo cùng tồn tại
    Ở Chăm pa Phật giáo được định vị với ngôi chùa ở Đồng Dương thờ Laksmindranokeevara
    Ở Giao Châu vào thể kỉ II đã có các sư tăng ngưới Ấn Độ như Khương Cư và trung Quốc như Ma Ha Kì Vực, Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Tử vào truyền đạo. Năm 580, Thiền sư Tỳ Ni Đa Lưu Chi lập Thiền phái đầu tiên. Năm 820, Thiền sư Vô Ngôn Thông lập thiền phái thứ hai. Luy lâu là một trung tâm Phật giáo lớn vào những thế kỉ đầu CN. Nhiều cao tăng Trung Quốc trên đường sang Ấn Độ cầu kinh học đạo đều dừng lại ở Luy Lâu để học chữ Phạn và tiếp xúc với tăng sĩ Ấn Độ có mặt tại đó
    Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu công nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La trong khoảng các năm 168-189.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...