Luận Văn Chính sách tỷ giá hối đoái với sự phát triển kinh tế Việt Nam

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    I. CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ HỐI ĐOÁI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
    1. Cơ chế tỷ giá hối đoái ở Việt Nam:
    ã Trước những năm 1990, với nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, nhà nước ta đã duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Thời gian này, sự điều hành và quản lý nền kinh tế thị trường còn sơ khai, kinh nghiệm và kiến thức về quản lý nền kinh tế thị trường còn chưa nhiều. Đặc biệt trong thời kỳ này nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ khủng hoảng, lạm phát phi mã nên mong muốn có một nền kinh tế ổn định và phát triển là rất lớn. Nhiều chuyên gia cho rằng cần áp dụng cơ chế tỷ giá cố định làm cho lòng tin của nhân dân vào đồng Việt Nam tăng lên. Với cơ chế tỷ giá cố định cũng tạo ra tâm lý an tâm cho các nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư nước ngoài.


    ã Việc áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái cố định trong giai đoạn này là hợp lý nhưng do nước ta đã áp dụng quá lâu chế độ này làm cho nền kinh tế Việt Nam trở nên yếu kém, không khuyến khích xuất khẩu, việc làm giảm và đặc biệt là nền kinh tế nước ta chậm thích nghi với cơ chế thị trường. Hơn nữa chế độ tỷ giá hối đoái cố định làm cho đồng Việt Nam lên giá một cách giả tạo sẽ làm suy giảm sức cạnh tranh của hàng hoá nước ta, triệt tiêu lợi thế so sánh của nền kinh tế.


    ã Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý, nhiều chuyên gia cho rằng Việt Nam nên áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái thả nổi. Bởi họ cho rằng cơ chế này sẽ có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế tạo ra một xung lực mới khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu và sẽ tạo ra nhiều công ăn việc làm. Cơ chế này sẽ tạo nên sự cân bằng giữa cung cầu ngoại tệ trên thị trường trong nước. Tuy nhiên Việt Nam đang còn trong những bước sơ khai chuyển sang nền kinh tế thị trường, mọi cơ chế chính sách còn chưa đồng bộ, còn nhiều bất cập đặc biệt là cơ chế chính sách về tài chính tiền tệ. Nếu nước ta áp dụng cơ chế chính sách tỷ giá hối đoái thả nổi sẽ dẫn đến rối loạn hoặc khủng hoảng khi sức lực của nền kinh tế còn quá nhỏ bé, hệ thống cơ chế, chính sách chưa đồng bộ và kiến thức cũng như kinh nghiệm về vấn đề này còn ít. Tất cả những điều đó có lợi cho xuất khẩu nhưng lại bất lợi cho nhập khẩu. Ví dụ, khi tỷ giá VND/USD lên quá cao không ngừng sẽ diễn ra nhiều biến động khác khó lường như thất nghiệp, phá sản của các doanh nghiệp và giảm sút về đời sống của nhân dân, gây rối loạn xã hội, làm cho chính trị và kinh tế bất ổn định.


    ã Đại đa số các chuyên gia cho rằng Việt Nam nên áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái có sự điều chỉnh của nhà nước là phù hợp nhất. Cơ chế tỷ giá hối đoái cố định mặc dù có một số ưu điểm không thể phủ nhận được nhưng cũng có nhiều nhược điểm không phù hợp với nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó cơ chế tỷ giá hối đoái cố định cũng có rất nhiều nhược điểm nếu nó được áp dụng cho Việt Nam khi mà nền kinh tế nước ta còn quá non kém. Do vậy áp dụng cơ chế linh hoạt có sự điều tiết của nhà nước vừa phản ánh đúng đòi hỏi của cơ chế thị trường vừa đảm bảo tính chủ động và bàn tay “cứng rắn” của nhà nước can thiệp khi có biến động để tạo ra sự phát triển năng động của nền kinh tế và mặt khác tạo ra sự phát triển một cách ổn định và vững chắc của nó. Chính vì vậy, Việt Nam đã thiết lập hệ thống tỷ giá hối đoái theo tín hiệu thị trường có sự can thiệp của chính phủ từ tháng 3 năm 1989. Với sự kiện phá giá rất mạnh nội tệ, sau đó nhanh chóng thống nhất hệ thống tỷ giá mới, xoá bỏ hệ thống tỷ giá cũ thì cơ chế quản lý ngoại hối và chính sách tỷ giá của Việt Nam đã có những biến động rất căn bản sang cơ chế thị trường. Với sự thành lập của hai trung tâm ngoại tệ tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh (1994) đã đánh giá bước ngoặt đầu tiên của hệ thống ngân hàng trong quá trình đổi mới thực sự cơ chế theo hướng thị trường. Có thể nói toàn bộ việc điều hành tỷ giá hối đoái của chính phủ trong giai đoạn 1990 đến 1997 là áp dụng chính sách tỷ giá linh hoạt dưới sự điều tiết của nhà nước, chủ yếu dựa vào neo giữ và quy đổi VND theo USD qua một số ngoại tệ hẹp, trong đó USD chiếm một tỷ trọng lớn. Tuy nhiên chế độ này cũng bộc lộ một số nhược điểm của nó là ổn định quá lâu dẫn đến không khuyến khích xuất khẩu và sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy trong những giai đoạn cuối của những năm 1997 đến đầu 1999, để thích ứng hơn với thị trường và cũng để hạn chế những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính Đông Nam Á (2/7/1997) ngân hàng nhà nước đã điều chỉnh liên tục tỷ giá chính thức cùng biên độ.


    - Ngày 13/10/1997 mở rộng biên độ giao dịch lên mức +(-) 10%
    - Ngày 16/2/1998 nâng tỷ giá chính thức từ 1 USD =111175 VND lên mức 1 USD =11800 VND, tăng 5,6%.
    - Ngày 7/8/1998 thu hẹp biên độ giao dịch xuống còn +(-) 7% , đồng thời nâng tỷ giá chính thức lên 1 USD =12998 VND.
    - Từ ngày 6/11/1998 đến 15/1/1999 là một chuỗi những điều chỉnh giảm liên tục trong tỷ giá chính thức cùng biên độ.
    .
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...