Luận Văn Chính sách tiền tệ và phương thức vận hành các công cụ chính sách tiền tệ của ngân hàng nhà nước việ

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Lời mở đầu !
    Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trên đất nước ta đang diễn ra sôi động quá trình phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách có hệ thống nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế theo cơ chế mới, trong đó một lĩnh vực có vị trí hết sức quan trọng được coi là huyết mạch trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững đó là lĩnh vực Tiền tệ - Ngân hàng.
    Ở nước ta, với tư cách là thiết chế đầu não của toàn bộ hệ thống tài chính và ngân hàng. Ngân hàng Trung ương là cơ quan chủ chốt, thiết kế và vận hành các công cụ Chính sách tiền tệ phục vụ cho mục tiêu điều tiết vĩ mô trong từng thời kỳ. Kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước đã chỉ ra rằng, mỗi bước thăng trầm của nền kinh tế đều có nguyên nhân sâu xa gắn liền với Chính sách tiền tệ và hoạt động của Hệ thống ngân hàng.
    Với nhận thức trên, bằng những kiến thức tiếp nhận trong quá trình học tập cũng như nghiên cứu thêm một số tài liệu có liên quan, Em đã lựa chọn và đi sâu vào phân tích đề tài: “CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ PHƯƠNG THỨC VẬN HÀNH CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM HIỆN NAY ” làm đề án môn học năm 3 của mình. Đề án gồm 2 phần chính :
    PHẦN 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA
    PHẦN 2. CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM


    PHẦN 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ QUỐC GIA
    I. KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC ĐIỂM CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
    1. Khái niệm và vai trò của CSTT
    Chính sách tiền tệ (CSTT) là một bộ phận trong tổng thể hệ thống Chính sách Kinh tế của Nhà nước, do Ngân hàng Trung Ương (NHTW) thực hiện để thực hiện việc quản lý vĩ mô đối với nền kinh tế, nhằm đạt tới những mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định trong từng thời kỳ nhất định.
    Theo nghĩa rộng: CSTT là Chính sách điều hành toàn bộ khối lượng tiền trong nền kinh tế quốc dân nhằm tác động đến mục tiêu cơ bản là ổn định tiền tệ, giữ vững sức mua của đồng tiền và ổn định giá cả của hàng hóa.
    Theo nghĩa thông thường: CSTT là Chính sách quan tâm đến khối lượng tiền cung ứng tăng thêm trong thời kỳ tới phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế dự kiến và chỉ số lạm phát nếu có.
    Theo điều 2 luật NHNNVN: “CSTT quốc gia là một bộ phận của Chính sách Kinh tế - tài chính của Nhà nước nhằm ổn định giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, bảo ddamr quốc phòng an ninh và nâng cao đời sống nhân dân.
    Nhà nước quản lý thống nhất mọi hoạt động của Ngân hàng, có chính sách để động viên các nguồn lực trong nước là chính, tranh thủ tối đa nguồn lực ngoài nước, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, đảm bảo vai trò chủ đạo và chủ lực của các tổ chức tín dụng nhà nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng, giữ vững định hướng Xã hội chủ nghiã, chủ quyền quốc gia, mở rộng hợp tác và hội nhập quôc tế, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, góp phần thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.”
    CSTT có một vai trò cực kỳ quan trọng, thể hiện ở việc nó có nhiệm vụ tác động và nhiều hướng tạo ra đầu tư, tiết kiệm và ổn định tiền tệ, giá cả. Qua đó góp phần quan trọng vào sự thành công hay thất bại của cả nền kinh tế. Trên cơ sở 4 mục tiêu kinh tế vĩ mô, một CSTT được đánh giá là hoàn hảo nếu:
     Tốc độ lạm phát: 1% - 3%.
     Tăng trưởng kinh tế: 3% - 5%.
     Thất nghiệp khoản 4% tổng lao động.
     Số dư trong cán cân thanh toán quốc tế chiếm 2% - 3% trên GDP.

    2. Hình thức và đối tượng quản lý
    Chính sách tiền tệ có 2 hình thức thể hiện cơ bản sau:
     CSTT nới lỏng: cung tiền tệ trở nên dồi dào, thừa thải nhằm khuyến khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm và chống suy thoái.
     CSTT thắc chặt: nền kinh tế trở nên đắt đỏ, khó khăn do lương cung tiền bị hạn chế nhằm hạn chế đầu tư, kìm hãm sự phát triển “quá nóng” của nền kinh tế và chống lạm phát .
    Đối tượng quản lý của CSTT: chính là khối tiền. Theo quan niệm tiền tệ của cơ chế thị trường thì tùy theo mục đích khác nhau mà phân chia tiền theo nhiều phương thức, tiêu chuẩn khác nhau.
     Theo chức năng lưu thông, tiền được thể hiện ở khối tiền mặt (M) do NHTW phát hành gồm: tiền mặt trong dân cư, trong các tổ chức kinh tế và phi kinh tế cùng với tiền mặt tồn quỹ tại quỹ tín dụng, kho bạc, quỹ điều hành nghiệp vụ, quỹ dự trữ của NHTW.
     Theo chức năng lưu thông và phương tiện thanh toán, tiền được xác định là khối tiền M1 = M + những khoản tiền gởi không kỳ hạn bằng bản tệ.
     Theo chức năng lưu thông thanh toán và cất trữ thì tiền tệ thể hiện bằng khối tiền M2 = M1 + những khoản tiền gởi có kỳ hạn bằng bản tệ.
     Với tổng số tín dụng thì biểu hiện dưới khối tiền M3 = M2 + những công cụ tài chính khác.
    Dựa trên việc căn cứ vào mục tiêuđiều tiết trong chính sách kinh tế cũng như căn cứ vào khả năng điều tiết của NHTW, ở Việt Nam đã chọn khối tiền M2 là đối tượng quản lý của CSTT vì M2 ổn định hơn.
    II. MỤC TIÊU CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ
    Có Trên tổng thể, mục tiêu của Chính sách tiền tệ là điều tiết. Hay nói khác hơn, mục tiêu của NHTW có thể quy thành hai nhóm là: Mục tiêu tiền tệ và Mục tiêu kinh tế.
    1. Mục tiêu tiền tệ (mục tiêu trực tiếp )
    Về phương diện tiền tệ, có 4 mục tiêu mà Chính sách tiền tệ mong muốn đạt tới là: điều hòa khối tiền tệ, kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền, bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền và ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền.

    1.1 Điều hòa khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế - xã hội :
    Đó là nhằm duy trì mối tương quan Tiền - Hàng được ổn định bằng cách điều hòa khối lượng tiền tệ. Cơ chế điều hòa dưới hai nội dung chính là Mức độ và Cách luân chuyển. Có một nguyên tắc tổng quát là nếu mỗi năm nền kinh tế đều tăng trưởng thì phải tăng khối lượng tiền tệ bằng tỷ lệ tăng trưởng kinh tế.
    Điều hòa khối tiền tệ ngày nay có nghĩa là điều chỉnh việc tạo tiền và sử dụng tiền trong hệ thống Ngân hàng hai cấp. Một khả năng kỳ bí của hệ thống Ngân hàng hai cấp là tạo tiền, điều chỉnh mức cung tiền để ổn định tiền tệ. Do việc phân chia hệ thống Ngân hàng thành hai cấp nên có việc phân chia hai loại tiền : tiền Ngân hàng trung ương và tiền Ngân hàng. Tiền trung ương là tiền do NHTW độc quyền phát hành. Tiền Ngân hàng (tiền tín dụng) là tiền do các NHTM tạo ra thông qua việc cấp tín dụng cho nền kinh tế, đặt biệt là tiền trên các tài khoản thanh toán séc. Nó được tạo ra như là một sự mở rộng gấp nhiều lần quỹ dự trữ Ngân hàng thông qua hệ số tạo tiền. Để điều hòa khối lượng tiền tệ NHTW sử dụng các công cụ trực tiếp và gián tiếp :
    Những phương tiện trực tiếp có ảnh hưởng thẳng đối với khối lượng tiền lưu hành. Những phương tiện trực tiếp bao gồm : Kiểm soát các NHTM, sự bất động hóa vàng nhập khẩu, hạn chế nhập nội các ngoại tệ .
    Với những phương tiện gián tiếp có ảnh hưởng không chắc chắn, ảnh hưởng có xãy ra hay không là tùy ở phản ứng của các đối tượng, bao gồm : Tăng hay giãm lãi suất chiết khấu, Chính sách thị trường mở . Những phương tiện gián tiếp chủ yếu thực hiện thông qua cơ chế thị trường, mà công cụ chủ yếu trong cơ chế thị trường là lãi suất.
    Như vậy, thông qua cung ứng tiền trung ương và các phương tiện trực tiếp hoặc gián tiếp, NHTW hoàn toàn làm chủ khả năng điều hòa khối lượng tiền tệ cung ứng cho nền kinh tế và đó là lẽ sống còn của NHTW.
    1.2 Kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền :
    Việc kiểm soát khối tiền tệ đơn thuần có nhược điểm là không lưu ý tới tốc độ lưu hành tiền tệ. Sự ảnh hưởng mạnh mẽ đến vật giá không phải chỉ có khối tiền (M) mà còn cả tốc độ lưu hành tiền tệ (V) nửa. Hay nói cách khác, kiểm soát tổng số thanh toán bằng tiền chính là kiểm soát độ lớn của tiền tệ mà có tính tới tốc độ lưu thông của tiền (V) để từ đó xác định mức cung tiền phù hợp.
    Nhưng việc kiẻm soát M.V. là rất khó bởi vì tùy thuộc vào cách hành động của các chủ thể kinh tế riêng biệt trong sử dụng tiền tệ. Nó tùy thuộc vào niềm tin của những người này đối với giá trị tiền tệ, sự tiên liệu của họ về thời cơ kinh tế, những cơ hội làm ăn sinh lời, khuynh hướng tiêu xài của dân chúng, lòng tin vào chính sách kinh tế của Nhà nước .Ngoài ra nó còn phụ thuộc vào khả năng thanh toán của ngân hàng, trình độ kỷ thuật công nghệ ngân hàng, mức độ tin tưởng của dân chúng đối với ngân hàng.
    Ơ những nước công nghiệp phát triển, các tiện ích ngân hàng được sử dụng rộng rãi, các chủ thể kinh tế quen dùng séc trong thanh toán vì vậy NHTW kiểm soát số chi trả của toàn xã hội qua hệ thống ngân hàng bằng cách tính tổng giá trị séc đưa đi giao hoán tại NHTW và theo dõi biến chuyển của nó. Còn ở nước ta, việc dùng séc và các phương tiện thanh toán khác qua ngân hàng còn ít thông dụng, dùng tiền mặt để chi trả là phổ biến cho nên có một khối tiền mặt rất lớn lưu thông bên ngoài hệ thống ngân hàng, vượt qua tầm kiểm soát của NHTW. Đó là đầu mối gây bất ổn cho nền kinh tế một các đột biến. Đó cũng là lý do cần thu hút lượng tiền trong tay dân cư vào hệ thống ngân hàng dưới hình thức tiền gởi không kỳ hạn và dùng séc để thanh toán, một yếu tố cần thiết để cho việc thực thi Chính sách tiền tệ được hữu hiệu.
    1.3 Bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền :
    Giá trị quốc nội của đồng tiền là sức mua của nó đối với hàng hóa và dịch vụ trong nước. Sức mua của đồng tiền biến đổi ngược chiều với vật giá. Khi mức vật giá chung gia tăng, sức mua của đồng tiền giảm và ngược lại. Do đó, bảo vệ giá trị quốc nội của đồng tiền cũng chính là bảo vệ sức mua của đồng tiền quốc nội. Muốn vậy, Chính sách tiền tệ phải bảo đảm được mức giá chung ổn định, nghĩa là phải kiểm soát lạm phát ở một tỷ lệ vừa phải.
    Sự ốn định của vật giá là điều cần thiết để mọi người được an tâm, tin tưởng trong việc tính toán công việc đầu tư, vì đầu tư là cuộc tính toán lâu dài. Vậy, cần có sự ổn định lâu dài mới khuyến khích sức đầu tư.
    Trong trường hợp không duy trì được sự ổn định, một mức vật giá gia tăng hằng năm ở mức 2 hay 3% là mức gia tăng thuận lợi cho sự phát triển mà Chính sách tiền tệ có thể chấp nhận được. Lẽ tất nhiên, một Chính sách tiền tệ có thể tác động tới sự gia tăng năng suất trong hoạt động sản xuất của các chủ thể kinh tế vẩn là điều mong mỏi.
    1.4 Đảm bảo giá trị quốc ngoại của đồng tiền :
    Giá trị quốc ngoại của đồng tiền thể hiện thông qua tỷ giá hối đoái. Sự biến động của tỷ giả hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh tế trong nước tùy theo mức độ hướng ngoại của nền kinh tiền tệ. Trái lại, mọi biến chuyển về tiền tệ cũng tác động tới mối tương quan giữa tiền tệ trong nước và tiền tệ nước ngoài . Chính vì vậy, Chính sách tiền tệ phải chú trọng đến việc bảo đảm và ổn định giá trị quốc ngoại của đồng tiền trong nước.
    Tỷ giá hối đoái chịu sự tác động mạnh của khối dự trữ ngoại hối, thị trường và chính sách hối đoái, tình hình giá cả trong nước . do đó, một Chính sách tiền tệ nhằm ổn định kinh tế trong nước cần phải đi đôi với những biện pháp nhằm ổn định tỷ giá hối đoái. Có nhiều biện pháp như kiểm soát lạm phát, tăng cung tiền để tăng trưởng kinh tế, xác định lĩnh vực đầu tư ưu tiên .
    2. Mục tiêu kinh tế (mục tiêu gián tiếp)
    Chính sách tiền tệ còn nhằm đến một mục đích xa hơn, đó là mục tiêu kinh tế, Mục tiêu kinh tế gồm có hai điểm chính sau đây :
     Tăng trưởng kinh tê, trong đó có mục tiêu đạt đến mức nhân dụng cao.
     Giảm thiểu những thăng trầm trong chu chuyển kinh tế.
    2.1 Mục tiêu tăng trưởng kinh tế
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...