Luận Văn Chính sách thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc tế

Thảo luận trong 'Tài Chính Thuế' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI MỞ ĐẦU
    Đại hội Đảng Công sản Việt Nam lần thứ VI năm 1986 được xem là một mốc son trong quá trình phát triển nền kinh tế Quốc gia, đây chính là bước ngoặt phát triển nền kinh tế Việt Nam: “phát triển theo cơ chế thị trường, dưới sự quản lý và điều tiết vĩ mô của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa”
    Sự lựa chọn sáng suốt đường lối phát triển kinh tế mà Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ VI (1986) đề ra là không thể phủ nhận được. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy rằng bản thân nền kinh tế thị trường cũng không phải là một nền kinh tế hoàn hảo, mà bản thân nó cũng có những khuyết tật vốn có của nó. Một trong những khuyết tật vốn có lớn nhất của nền kinh tế thị trường là ngăn cách giữa giàu nghèo trong xã hội. Kinh tế thị trường ở Việt Nam cho dù đang ở mức độ đầu, nhưng vấn đề phân hóa giàu nghèo trong xã hội cũng là vấn đề cần quan tâm.
    Như chúng ta đã biết Nhà nước dùng thuế làm công cụ điều tiết vĩ mô nền kinh tế, điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội và là công cụ chủ yếu huy động nguồn lực vật chất cho Nhà nước. Cho dù trong điều kiện kinh tế Việt Nam, thuế gián thu có những vai trò rất to lớn của nó. Nhưng với mục đích điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội bằng thuế trong nền kinh tế thì thuế trực thu lại thể hiện tính ưu việt hơn, đồng thời tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước một cách hợp lý, hợp hiến. Vì vậy, hướng đến một chính sách thuế thu nhập là điều tất yếu nhằm góp phần điều tiết bớt một phần thu nhập từ các tầng lớp người có thu nhập cao trong xã hội, hình thành các quỹ tiền tệ tập trung giúp Nhà nước ngày càng thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội của mình.
    Như phân tích ở trên, đó cũng chính là lý do mà Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam ban hành chính sách thuế thu nhập, cụ thể là Pháp lệnh thuế Thu nhập đối với người có thu nhập cao. Đây là loại thuế được áp dụng từ rất lâu tại hầu hết các Quốc gia trên thế giới, cho dù tên gọi ở một số nước có khác nhau nhưng bản chất thì đối tượng tính thuế vẫn là thu nhập cá nhân. Đối với Việt Nam thì Pháp lệnh thuế Thu nhập đối với người có thu nhập cao đầu tiên được ban hành vào ngày 27/12/1990, và có hiệu lực thi hành từ 01/04/1991. Qua hơn 15 năm thực thi, Quốc hội nước ta đã trải qua 5 lần sửa đổi, thay thế Pháp lệnh năm 1990 bằng những pháp lệnh mới phù hợp hơn với điều kiện và hoàn cảnh kinh tế xã hội. Bên cạnh những kết quả đạt được nhất định, chính sách thuế Thu nhập đối với người có thu nhập cao ngày nay vẫn còn những bất cập, thất thu cho Ngân sách Nhà nước đồng thời không công bằng đối với người nộp thuế. Vì vậy, chính sách thuế cần phải tiếp tục được hoàn thiện hơn để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội cũng như trong bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc tế.
    Xuất phát từ thực tế và suy nghĩ trên, Tôi xin chọn đề tài: “Chính sách thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế Quốc tế” làm Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ kinh tế.
    Mục đích chủ yếu của Luận văn này là dựa trên những lý luận cơ bản về thuế Thu nhập cá nhân, tập trung phân tích, đánh giá thực trạng việc áp dụng thuế Thu nhập đối với người có thu nhập cao ở nước ta từ năm 1991 đến nay, đồng thời có tham khảo việc áp dụng thuế Thu nhập cá nhân ở một số quốc gia trên thế giới. Từ đó đưa ra những vấn đề cần hoàn thiện và xây dựng một chính sách thuế Thu nhập cá nhân sao cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội tại Việt Nam trong thời gian tới.
    Về mặt phương pháp luận, Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lý thuyết để khái quát lên những lý luận cơ bản về thuế Thu nhập cá nhân và bằng phương pháp nghiên cứu thực nghiệm từ thực tế, kết hợp thêm phương pháp so sánh để phân tích, đánh giá quá trình áp dụng Thuế Thu nhập đối với người có thu nhập cao trong điều kiện kinh tế Việt Nam. Từ đó đưa ra những nguyên nhân tồn tại và định hướng các giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện và xây dựng một chính sách thuế Thu nhập cá nhân phù hợp với chủ trương phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nước.
    Luận văn được kết cấu gồm 3 chương:
    Chương 1: Tổng quan về chính sách thuế thu nhập cá nhân.
    Chương 2: Thực trạng áp dụng chính sách thuế Thu nhập đối với người có thu nhân cao ở Việt Nam.
    Chương 3: Các giải pháp nhằm xây dựng chính sách thuế Thu nhập cá nhân ở Việt Nam.
    Do khả năng và thời gian nghiên cứu có hạn, Luận văn không tránh khỏi những sai sót, rất mong Quý Thầy, Cô cùng các bạn góp ý bổ sung để đề tài mang tính hiện thực hơn.

    CHƯƠNG I:
    TỔNG QUAN VỀ CHÍNH SÁCH THUẾ THU NHẬP CÁ NHÂN
    1.1 Khái quát về thuế
    1.1.1 Khái niệm về thuế
    Thuế gắn liền với sự tồn tại, phát triển của Nhà nước và là một công cụ quan trọng mà bất kỳ quốc gia nào cũng sử dụng để thực thi chức năng, nhiệm vụ của mình. Tùy thuộc vào bản chất của Nhà nước và cách thức Nhà nước sử dụng, các nhà kinh tế có nhiều quan điểm về thuế khác nhau, mỗi quan điểm đều nhấn mạnh một chiều theo từng góc độ khác nhau. Mặc dù đến nay còn nhiều tranh cãi về khái niệm của thuế nhưng các nhà kinh tế đều thống nhất rằng, để làm rõ bản chất của thuế thì định nghĩa của thuế phải nêu bật được các nội dung sau:
    - Thứ nhất, thuế là một khoản thu không bồi hoàn, không mang tính hoàn trả trực tiếp. Nộp thuế cho Nhà nước không có nghĩa là cho Nhà nước mượn tiền hay gửi tiền vào ngân sách Nhà nước hoặc là mua một dịch vụ công. Nộp thuế là một nghĩa vụ cơ bản nhất của công dân.
    - Thứ hai, thuế là một khoản thu mang tính bắt buộc, để đảm bảo tập trung thuế trên phạm vi toàn xã hội. Chính phủ phải cậy nhờ vào hệ thống pháp luật nên thuế thường được quy định dưới dạng văn bản luật hay pháp lệnh. Cho nên, trốn thuế hay gian lận thuế đều bị coi là những hành vi phạm pháp và phải chịu xử phạt về hành chính hoặc hình sự.
    - Thứ ba, các pháp nhân và thể nhân chỉ phải nộp cho Nhà nước các khoản thuế đã được pháp luật qui định.
    Từ việc phân tích những quan niệm về thuế nêu trên, chúng ta có thể đưa ra một định nghĩa tổng quát về thuế như sau:
    Thuế là một khoản đóng góp bắt buộc của các tổ chức, cá nhân cho Nhà nước theo mức độ và thời hạn được pháp luật quy định, không mang tính chất hoàn trả trực tiếp, nhằm sử dụng cho mục đích chung toàn xã hội.
    1.1.2 Vai trò của thuế
    Thứ nhất, thuế là công cụ chủ yếu huy động nguồn lực vật chất cho Nhà nước
    Đối với các nước có nền kinh tế phát triển, để huy động tập trung nguồn lực tài chính đáp ứng nhu cầu chi tiêu của Nhà nước thì vai trò quan trọng này thuộc về thuế. Sử dụng công cụ thuế để huy động tiền thuế cho Nhà nước có ưu điểm: Phạm vi thu thuế rộng, nguồn huy động tập trung thông qua thuế là tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân trong nước tạo ra, tính ưu thế của động viên thông qua thuế so với các công cụ tài chính khác còn thể hiện ở chổ thuế kết hợp giữa phương thức cưỡng bức, được quy định dưới hình thức pháp luật, kích thích vật chất, nhằm tạo ra sự quan tâm của đối tượng nộp thuế đến chất lượng hiệu quả kinh doanh.
    Vì những ưu nhược điểm nêu trên, thuế luôn được coi là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước. Nguồn thu của Ngân sách Nhà nước có thể gia tăng khi và chỉ khi nền kinh tế có sự tăng trưởng và đạt năng suất hiệu quả cao.
    Thứ hai, thuế là công cụ điều tiết nền kinh tế vĩ mô trong nền kinh tế thị trường
    Trong nền kinh tế thị trường, Nhà nước có khả năng sử dụng chính sách thuế để điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Điều đó xuất phát từ chức năng điều chỉnh của thuế. Vì lợi ích xã hội, Nhà nước có thể tăng thuế hoặc giảm thuế đối với thu nhập của các tầng lớp dân cư và với doanh nghiệp để kích thích hoặc hạn chế sự phát triển các lĩnh vực các ngành nghề khác nhau của nền kinh tế.
    Thứ ba, thuế là công cụ điều hòa thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối
    Sự phát triển kinh tế của một quốc gia là kết quả nổ lực của cộng đồng xã hội. Mọi thành viên trong xã hội đều có những đóng góp nhất định, thành quả của sự phát triển kinh tế cần phải làm cho mọi thành viên trong xã hội được hưởng thỏa đáng, hài hòa. Để thực hiện được yêu cầu này, Nhà nước phải sử dụng công cụ thuế để quản lý điều hòa thu nhập xã hội. Trong nền kinh tế thị trường, nguồn lực xã hội tham gia vào nền kinh tế, chủ yếu do luật thị trường huy động phân bổ và tham gia thực hiện việc phân phối các yếu tố đầu ra. Đó là sự phân phối mang tính chất kinh tế. Tuy nhiên, nếu để cho thị trường tự điều phối nền kinh tế thì sẽ tạo ra những khiếm khuyết và không phải lúc nào cũng đạt kết quả sản xuất kinh doanh và đem lại thu nhập như xã hội mong muốn. Do vậy, Nhà nước phải can thiệp vào sự phân phối để quản lý và điều chỉnh hoạt động của nền kinh tế. Nhà nước can thiệp bằng hệ thống Luật pháp, bằng công cụ kinh tế, tài chính trong đó quan trọng là công cụ thuế. Trong chính sách thuế, Nhà nước đã thiết kế đối tượng điều tiết khác nhau với các mức thuế suất và chế độ ưu đãi khác nhau. Do vậy, chính sách thuế đã tác động mạnh mẽ đến cung cầu các loại nguyên, nhiên, vật liệu, hàng hóa, dịch vụ khác nhau, để điều chỉnh quá trình phân phối các yếu tố đầu vào của các lực lượng thị trường và điều chỉnh quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp. Thuế đã trực tiếp tham gia vào phân phối thu nhập xã hội từ kết quả sản xất kinh doanh của nền kinh tế.
    Vấn đề then chốt là quá trình thực hiện phân phối thu nhập xã hội của thuế phải đảm bảo nguyên tắc bình đẳng, thực hiện công bằng xã hội trong phân phối. Nhà nước áp dụng chính sách thuế phải thống nhất giữa các thành phần kinh tế và các tầng lớp dân cư, không phân biệt giữa các đơn vị, cá nhân. Khi các tổ chức, cá nhân có điều kiện kinh doanh và có thu nhập giống nhau đều phải nộp thuế như nhau (bình đẳng theo chiều ngang). Người có thu nhập quá thấp không đủ bảo đảm đời sống thì không phải nộp thuế (bình đẳng theo chiều dọc). Sự bình đẳng của chính sách thuế sẽ tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội làm ăn có hiệu quả, có năng suất cao phải được thu nhập cao hơn. Từ đó, kích thích mọi tổ chức, cá nhân tập trung sức đầu tư phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh để có thu nhập cao một cách chính đáng.
    Đồng thời với vai trò phân phối, thuế còn thực hiện vai trò phân phối lại thu nhập xã hội. Vai trò phân phối lại của thuế được thực hiện thông qua việc Nhà nước sử dụng tiền thuế đã nộp vào Ngân sách Nhà nước để chi tiêu cho các hoạt động chức năng của Nhà nước nhằm phục vụ lợi ích của nhân dân. Nhà nước sử dụng tiền thuế để sản xuất ra hàng hóa - dịch vụ công phục vụ tiêu dùng chung cho toàn xã hội. Ngoài ra Nhà nước còn sử dụng một phần tiền thuế để trợ cấp, thực hiện điều hòa thu nhập xã hội.
    Khi thị trường thực hiện việc phân phối thu nhập thì tổng thu nhập của mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình hoàn toàn không giống nhau, do các yếu tố tham gia vào quá trình sản xuất khác nhau. Một nhóm người có thu nhập rất cao, phần lớn số người có thu nhập trung bình và thấp, còn một số người khác thì hầu như không có thu nhập như người khuyết tật, già yếu, bệnh hoạn và thất nghiệp không có bất kỳ tài sản nào. Do đó, việc phân phối lại thu nhập xã hội là biện pháp mà các chính phủ phải thực hiện, nhằm góp phần điều hòa thu nhập, làm giảm bớt những chênh lệch do phân phối thu nhập quốc dân tạo ra, đồng thời cung cấp những nhu cầu rất cần thiết cho nhân dân mà nền kinh tế thị trường không đáp ứng được.
    Thứ tư, ngoài những vai trò nêu trên thuế là công cụ thực hiện kiểm tra, kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh
    1.1.3 Hệ thống thuế Việt Nam
    Hệ thống thuế Việt Nam hiện hành gồm các loại thuế sau:
    1. Thuế giá trị gia tăng.
    2. Thuế xuất nhập khẩu.
    3. Thuế tiêu thụ đặc biệt.
    4. Thuế thu nhập doanh nghiệp.
    5. Thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao (thuế thu nhấp cá nhân).
    6. Thuế sử dụng đất nông nghiệp.
    7. Thuế nhà, đất.
    8. Thuế chuyển quyền sử dụng đất.
    9. Thuế tài nguyên.
    10. Thuế môn bài.
    11. Các loại phí và lệ phí.
    1.2 Thuế thu nhập cá nhân
    1.2.1 Khái niệm thuế Thu nhập
    Tùy theo mục đích nghiên cứu, các nhà kinh tế quan niệm về thu nhập dưới các góc độ khác nhau. Hai nhà kinh tế Anh là R.M Haig và H.G Simons đầu thế kỷ 20 đã đưa ra định nghĩa về thu nhập (sau này gọi là định nghĩa Haig-Simons) cho rằng thu nhập là tổng giá trị của cải ròng tăng lên của một cá nhân cộng với sự tiêu dùng của người đó trong một thời gian nhất định, thường là một năm. Quan điểm này mang tính lý thuyết và được chấp nhận rộng rãi. Tuy nhiên, trên thực tế rất khó thực hiện, vì rằng giá trị tăng thêm đó mới chỉ dừng lại dưới dạng tiềm năng, mặt khác nó lại được biểu hiện dưới các hình thức khác nhau như bằng tiền, hàng hóa và dịch vụ song lại chỉ được thực hiện khi có sự chuyển dịch quyền sở hữu.
    Dựa trên cơ sở định nghĩa Haig-Simons, các nhà kinh tế học hiện đại đã đưa ra hai quan niệm mới về thu nhập làm cơ sở đánh thuế thu nhập cá nhân:
    - Quan điểm về khái niệm “thu nhập bao quát” cho rằng, thu nhập là mọi khoản thu nhập ròng từ các nguồn sau khi đã khấu trừ các chi phí để tạo ra chúng, từ đó hình thành một phương thức đánh thuế trên tổng tài sản ròng, nghĩa là đánh thuế vào tất cả các lợi ích nhận được, bao gồm các lợi ích ngẫu phát - lợi ích có tính chất nhất thời.
    - Quan điểm về khái niệm “thu nhập hạn hẹp” dựa trên cơ sở thu nhập chỉ giới hạn trong những lợi ích phát sinh lặp đi lặp lại, có tính chất liên tục để hình thành một phương thức đánh thuế thu nhập dựa trên các nguồn phát sinh thu nhập.
    Đại diện cho trường phái này là nhà kinh tế học người Mỹ Paul. A. Samuelson đã đưa ra một khái niệm thu nhập tương đối hoàn chỉnh: “thu nhập là tổng số tiền kiếm được hoặc thu góp được trong một khoản thời gian nhất định (thường là một năm)”. Thuật ngữ “tiền” ở đây được hiểu là những khoản thu dưới dạng tiền tệ hay hiện vật được tính thành tiền, nó bao gồm cả phần sản xuất để tự tiêu dùng, nhận được từ các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, từ lao động hoặc không từ lao động, từ quyền sở hữu về tài sản, về tiền mà có hoặc tiêu dùng các dịch vụ không phải thanh toán.
    Trong các định nghĩa nêu trên, mặc dù chưa phản ánh một cách đầy đủ tất cả các khía cạnh của thu nhập, nhưng tổng hợp lại cho thấy thu nhập có một số điểm chung sau đây:
    - Thu nhập luôn gắn với một chủ thể nhất định trong nền kinh tế, xã hội thể hiện tính sở hữu của thu nhập.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...