Tài liệu Chiến tranh Trung-Nhật lần hai (1937-1945)

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Chiến tranh Trung-Nhật lần hai (1937-1945)

    Chi tiết: Chiến tranh Trung-Nhật lần hai



    Rất ít người Trung Quốc có ảo tưởng về những kế hoạch của Nhật Bản tại đất nước mình. Thiếu nguyên liệu thô và sức ép từ sự gia tăng dân số, Nhật Bản ban đầu chiếm Mãn Châu vào tháng 9, 1931 và đưa vị vua cũ của nhà Thanh, Phổ Nghi, lên làm lãnh đạo một chính phủ bù nhìn có tên là Mãn Châu Quốc vào năm 1932. Việc mất Mãn Châu và những tiềm năng to lớn của nó cho phát triển công nghiệp cũng như các công nghiệp quốc phòng là một cú đánh đối với nền kinh tế Quốc Dân Đảng. Hội Quốc Liên, tiền thân của tổ chức Liên Hợp Quốc, được thành lập từ cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất không thể có hành động gì ngăn cản mưu đồ của Nhật. Nhật Bản bắt đầu tiến từ phía nam Vạn Lý Trường Thành lên phía bắc Trung Quốc. Tất nhiên, người người Trung Quốc rất tức giận Nhật Bản nhưng họ cũng bất mãn với Chính phủ Trung Hoa dân quốc, khi ấy chỉ lo đương đầu với Cộng sản mà bỏ quên những kẻ xâm lược Nhật Bản. Việc đặt nặng tầm quan trọng của sự thống nhất bên trong trước mối nguy hiểm từ bên ngoài thể hiện rõ nhất vào tháng 12 năm 1936, khi Tưởng Giới Thạch, trong một sự kiện được gọi là sự biến Tây An đã bị Trương Học Lương bắt cóc và buộc phải đồng ý liên minh với những người Cộng sản chống lại Nhật Bản, coi đó là điều kiện trả tự do.


    Cuộc kháng chiến Trung Quốc được củng cố thêm sau ngày 7 tháng 7, 1937, khi một cuộc đụng độ xảy ra giữa quân đội Trung Quốc và quân đội Nhật Bản bên ngoài Bắc Kinh (khi ấy được đổi tên thành Bắc Bình) gần Cầu Marco Polo tức cầu Lư Câu (người Hoa gọi là vụ Lư Câu Kiều). Vụ rắc rối này không chỉ đánh dấu sự khởi đầu, dù không tuyên bố, của cuộc chiến giữa Trung và Nhật mà còn khiến việc thông báo chính thức thành lập Mặt trận thống nhất thứ hai Quốc Dân Đảng-Cộng Sản Đảng chống lại Nhật Bản diễn ra sớm hơn. Thượng Hải mất sau một trận chiến ba tháng kết thúc với những tổn thất nghiêm trọng của hải quân và quân đội Nhật Bản. Thủ đô Nam Kinh thất thủ tháng 12 năm 1937. Tiếp theo là hàng loạt các cuộc thảm sát và hãm hiếp thường dân trong cuộc Thảm sát Nam Kinh.

    Sự hợp tác giữa Quốc Dân Đảng và Đảng cộng sản diễn ra tạo điều kiện thuận lợi cho những nhóm Cộng sản đang bị bao vây khi đó. Tuy nhiên, sự thiếu tin tưởng giữa hai bên hầu như chưa thay đổi. Liên minh này bắt đầu tan vỡ từ cuối năm 1938, dù Nhật Bản đã giành được và củng cố vững chắc nhiều vùng lãnh thổ ở phía bắc Trung Quốc và vùng Đồng bằng sông Dương Tử màu mỡ ở Trung Nguyên. Sau năm 1940, những cuộc xung đột giữa Quốc Dân Đảng và Cộng sản ngày càng trở nên thường xuyên tại những vùng không thuộc quyền kiểm soát của Nhật. Phe Cộng sản mở rộng ảnh hưởng của mình ở bất cứ cơ hội nào có thể và thể hiện mình là những tổ chức to lớn với cách quản lý hành chính hiện đại, cùng với những cải cách ruộng đất và thuế má khiến nông dân ùn ùn theo họ; trong khi Quốc Dân Đảng tìm cách trung lập hóa sự mở rộng ảnh hưởng của Cộng sản.

    Năm 1945 Trung Hoa dân quốc xuất hiện từ cuộc chiến với danh nghĩa là một cường quốc quân sự nhưng trên thực tế là một đất nước với nền kinh tế kiệt quệ và đang bên bờ một cuộc nội chiến. Kinh tế bị phá huỷ, kiệt quệ để thỏa mãn các nhu cầu chiến tranh với bên ngoài cũng như các cuộc tranh giành bên trong, lạm phát gia tăng với những kẻ đầu cơ, tích trữ, và cất giấu. Nạn đói đến cùng với chiến tranh, hàng triệu người mất nhà cửa vì lũ lụt và tình trạng bất ổn khắp nơi trên đất nước. Tình hình càng rắc rối thêm khi Đồng minh, theo Hội nghị Yalta vào tháng 2 năm 1945 cho phép quân đội Xô viết tiến vào Mãn Châu nhằm thúc đẩy quá trình tiêu diệt quân đội Nhật. Dù người Trung Quốc không hề có mặt tại Yalta, họ chỉ được tham vấn; và họ đã đồng ý cho người Xô viết tiến vào với hy vọng Liên xô sẽ chỉ đàm phán với chính phủ Quốc Dân Đảng. Sau cuộc chiến, Liên bang Xô viết, như một phần của thỏa thuận Yalta, cho phép họ tăng cường ảnh hưởng tại Mãn Châu, phá hủy và dỡ bỏ quá nửa số thiết bị quân sự của Nhật tại đó. Sự hiện diện của Liên Xô tại tây bắc Trung Quốc cho phép Cộng sản đủ thời gian để tự trang bị cho mình với các vũ khí của quân đội Nhật Bản. Các vấn đề phục hồi các vùng đất chiếm đóng cũ của Nhật và tái thiết đất nước sau những sự tàn phá của chiến tranh bắt đầu được đặt ra.
    5. Nội chiến (1945-1949)
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...