Tiến Sĩ Chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ từ năm 2001 đến nay

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 18/1/16.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    ii
    MỤC LỤC
    Trang
    MỞ ĐẦU 1
    Chương 1 CƠ SỞ HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ TOÀN CẦU CỦA
    MỸ GIAI ĐOẠN 2001-2015
    12
    1.1. Cơ sở lý luận 12
    1.1.1. Một số luận điểm sử dụng sức mạnh quân sự trong quan hệ quốc tế 12
    1.1.2. Tư duy quân sự Mỹ 19
    1.2. Cơ sở thực tiễn . 25
    1.2.1. Bối cảnh quốc tế những năm đầu thế kỷ XXI: Những thách thức chủ
    yếu đối với quân sự Mỹ .
    25
    1.2.2. Tình hình nước Mỹ 34
    1.2.3. Kết quả triển khai chiến lược quân sự của Mỹ dưới thời Tổng thống
    Bill Clinton .
    44
    Tiểu kết 49
    Chương 2 NỘI DUNG VÀ QUÁ TRÌNH TRIỂN KHAI CHIẾN LƯỢC QUÂN
    SỰ TOÀN CẦU CỦA MỸ GIAI ĐOẠN 2001 -2015 .
    51
    2.1. Nội dung chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ . 51
    2.1.1. Mục tiêu chiến lược . 51
    2.1.2. Nhiệm vụ trọng tâm của lực lượng quân sự Mỹ 57
    2.1.3. Đối tượng chiến lược, các loại hình chiến tranh . 61
    2.2. Quá trình triển khai chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ . 64
    2.2.1. Tiến hành chiến tranh, chiến dịch quân sự 64
    2.2.2. Điều chỉnh bố trí lực lượng quân sự ở nước ngoài . 69
    2.2.3. Tăng cường hiện đại hóa quân đội, nâng cao tiềm lực quốc phòng . 73
    2.2.4. Thúc đẩy hợp tác quân sự - quốc phòng . 78
    2.3. Đặc điểm chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ 83
    2.3.1. Chiến lược quân sự mang tính cường quyền, phục vụ bá quyền 83
    2.3.2. Lấy an ninh quốc gia làm nền tảng . 85
    2.3.3. Coi trọng triển khai lực lượng ở nước ngoài . 86 iii
    2.3.4. Đề cao liên minh và sự chia sẻ trách nhiệm của đồng minh 88
    Tiểu kết . 90
    Chương 3 TÁC ĐỘNG CỦA VIỆC TRIỂN KHAI CHIẾN LƯỢC QUÂN SỰ
    TOÀN CẦU CỦA MỸ ĐẾN NƯỚC MỸ VÀ AN NINH, CHÍNH
    TRỊ QUỐC TẾ
    92
    3.1. Tác động đến nước Mỹ . 92
    3.1.1. Tác động đến vị thế, quyền lực của nước Mỹ . 92
    3.1.2. Tác động đến việc thực hiện các mục tiêu an ninh quốc gia Mỹ 94
    3.1.3. Tác động đến kinh tế Mỹ . 99
    3.2. Tác động đến khu vực Trung Á, Trung Đông – Bắc Phi . 102
    3.2.1. Tác động đến tình hình an ninh . 102
    3.2.2. Tác động đến so sánh lực lượng . 106
    3.2.3. Sự phát triển của lực lượng khủng bố quốc tế . 108
    3.3. Tác động đến khu vực châu Âu 111
    3.3.1. Tác động đến tình hình an ninh 111
    3.3.2. Tác động đến so sánh lực lượng . 117
    3.3.3. Mâu thuẫn đối kháng giữa Mỹ và Nga 119
    3.4. Tác động đến khu vực châu Á - Thái Bình Dương 122
    3.4.1. Tác động đến tình hình an ninh 122
    3.4.2. Tác động đến so sánh lực lượng . 127
    3.4.3. Cạnh tranh sức mạnh và ảnh hưởng giữa Mỹ và Trung Quốc 132
    3.4.4. Tác động đến Việt Nam 135
    3.5. Một số dự báo . 138
    3.5.1. Về xu hướng Mỹ sử dụng quân sự trong quan hệ quốc tế 138
    3.5.2. Về trọng tâm chiến lược quân sự của Mỹ . 139
    3.5.3. Xu hướng quan hệ quân sự giữa Mỹ với các nước . 140
    Tiểu kết . 142
    KẾT LUẬN 144
    KIẾN NGHỊ . 148
    DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ . 151 iv
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . 152
    PHỤ LỤC 167
    Phụ lục 1 Hệ thống bảng biểu, số liệu
    Phụ lục 2 Một số chiến lược quân sự của Mỹ trong chiến tranh Lạnh
    Phụ lục 3 Một số học thuyết quân sự của Mỹ thời gian gần đây
    MỞ ĐẦU

    1. Lý do chọn đề tài
    Quân sự – quốc phòng là một trong những lĩnh vực, nhân tố quan trọng
    trong quan hệ quốc tế hiện đại vì quá trình dịch chuyển quyền lực trong môi
    trường quốc tế chịu tác động và hậu thuẫn tích cực của lực lượng quân sự. Sức
    mạnh quân sự vẫn tiếp tục là một trong những phương tiện chủ yếu được sử dụng
    để giải quyết xung đột, mâu thuẫn trong quan hệ quốc tế khi các biện pháp ngoại
    giao, kinh tế không phát huy được tác dụng.
    Mỹ là chủ thể đặc biệt quan trọng trong hệ thống quốc tế đương đại. Với
    tiềm lực quân sự đứng đầu thế giới, mỗi hành động quân sự của Mỹ ở nước ngoài
    đều có tác động trực tiếp đến quốc gia mà Mỹ coi là đối tượng, đối thủ và tác
    động nhất định đối với khu vực và thế giới. Giới lãnh đạo Mỹ luôn tuỳ thuộc vào
    bản chất của cuộc xung đột và mức độ lợi ích để đề ra cách thức giải quyết bằng
    lực lượng quân sự hoặc sử dụng đồng bộ tất cả các biện pháp và phương tiện
    nhằm đảm bảo an ninh quốc gia ở mức cao nhất, đồng thời phục vụ việc tập hợp
    lực lượng và duy trì địa vị của Mỹ trên trường quốc tế.
    Từ năm 2001 đến nay, quan hệ quốc tế bị chi phối bởi nhiều nhân tố mới,
    trong đó là sự trỗi dậy về mọi mặt của một số cường quốc, nhất là Trung Quốc.
    Thế giới đã chứng kiến các cuộc chiến tranh tại Afghanistan, Iraq, chiến dịch
    quân sự tại Libya, Syria . đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên quan đến Mỹ. Việc một
    siêu cường như Mỹ phát động chiến dịch quân sự nhằm vào các quốc gia có chủ
    quyền là điều không mới, nhưng khi Mỹ bất ngờ đưa ra học thuyết “đánh đòn phủ
    đầu”, ưu tiên sử dụng sức mạnh cứng, triển khai cuộc chiến chống khủng bố trên
    toàn cầu, sử dụng lý do chống khủng bố để tập hợp lực lượng đã khiến cho giới
    chính trị, quân sự nhiều nước bất ngờ và cho rằng Mỹ đã thay đổi chiến lược quân
    sự. Đặc biệt, từ năm 2012 trở lại đây, Mỹ đẩy mạnh hiện diện quân sự tại châu Á
    - Thái Bình Dương, tăng cường can dự vào các vấn đề an ninh, quốc phòng tại
    khu vực, khiến cho tình hình an ninh, quan hệ giữa các quốc gia liên quan có
    nhiều biến chuyển mới. Do vậy, câu hỏi đặt ra là: Tại sao Mỹ lại có những hành

    2
    động quân sự mạnh mẽ đến vậy? Chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ có những
    thay đổi nào? Các hoạt động quân sự của Mỹ từ năm 2001 đến nay đã tác động
    như thế nào đến trật tự thế giới và khu vực, thế cân bằng lực lượng tại các khu
    vực trọng điểm? Quan hệ giữa Mỹ với các trung tâm quyền lực trong bàn cờ
    chính trị quốc tế đầu thế kỷ XXI là Tây Ây, Nga, Trung Quốc có những thay đổi
    ra sao. Đây là những vấn đề cần phải nghiên cứu và giải đáp dưới góc độ quan hệ
    quốc tế.
    Trên phương diện nghiên cứu chiến lược, những động thái quân sự thời gian
    qua của một siêu cường như Mỹ đặt ra yêu cầu cần phải nghiên cứu để nắm bắt
    những thay đổi về mục tiêu, phương châm hành động quân sự của Mỹ cũng như
    xác định những vấn đề có tính quy luật, ổn định và xuyên suốt trong chiến lược
    quân sự toàn cầu của quốc gia này. Từ đó, có thể đánh giá chính xác tình hình,
    cục diện an ninh - chính trị liên quan, dự báo tình hình liên quan và đưa ra những
    kiến nghị về đường lối, chính sách của Việt Nam trong quan hệ với đối tác đặc
    biệt là Mỹ.
    Từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài:“Chiến lược quân sự toàn cầu của
    Mỹ từ năm 2001 đến nay” làm Luận án tiến sỹ chuyên ngành quan hệ quốc tế.
    2. Tình hình nghiên cứu vấn đề
    2.1. Nghiên cứu về luận điểm sử dụng sức mạnh quân sự trong quan hệ
    quốc tế
    - Công trình nghiên cứu của nước ngoài
    Hans J. Morgenthau (1948), “Political Power” trong cuốn Politics among
    Nations: The Struggle for Power and Peace, nhận định: Mục tiêu chính trị của
    việc chuẩn bị quân sự dưới bất kì hình thức nào là nhằm răn đe những quốc gia
    khác không dám tấn công bằng cách làm cho việc tấn công trở nên quá rủi ro
    không đáng để thực hiện. Nói cách khác, mục tiêu chính trị của chiến tranh không
    chỉ đơn thuần là chinh phục lãnh thổ và tiêu diệt quân đội kẻ thù mà còn khiến
    cho đối thủ tiềm năng từ bỏ ý định sử dụng vũ lực quân sự, thay đổi suy nghĩ của
    kẻ thù và làm cho họ phải tuân theo ý chí của người chiến thắng [139].

    3
    Bàn về vấn đề sử dụng sức mạnh cứng trong quan hệ giữa các quốc gia, Paul
    Kennedy (1987), tác giả của cuốn sách The rise and fall of the Great Powers cho
    rằng: Các cường quốc hưng thịnh và suy vong phụ thuộc vào tỷ lệ tăng trưởng của
    nền tảng công nghiệp và phí tổn của các cam kết đế chế tương quan với Tổng sản
    phẩm quốc nội (GDP). Sự bành trướng của các đế quốc đã mang trong nó mầm
    mống của suy vong trong tương lai.
    Gideon Rose (1998), trong “Neoclassical Realism and Theories of Foreign
    Policy” (World Politics, Vol. 51, No. 1) cho rằng: Các quốc gia có lý trí muốn
    theo đuổi an ninh có thể bình tĩnh và chỉ cần trỗi dậy khi cần đối phó với các mối
    đe dọa hiếm hoi từ bên ngoài. Ngay cả đến khi phải đối phó, những quốc gia này
    cũng chỉ phải đối phó bằng cách cân bằng lại để ngăn chặn mối đe dọa và tránh
    xảy ra xung đột.
    Stephen M. Walt (1998), trong International Relations: One World, Many
    Theories, Foreign Policy, No. 110 nhận định: Các cuộc chiến tranh giữa các
    cường quốc phần lớn xẩy ra do các nhóm trong nước phóng đại mối đe doạ và tin
    tưởng một cách quá mức vào hiệu quả của lực lượng quân sự.
    Trong cuốn sách International Relations of Asia do Maryland: Rowman &
    Littlefield xuất bản năm 2008, tác giả Amitav Acharya nhận định trong bài viết
    Theoretical Perspectives on International Relations in Asia như sau: Trật tự thế
    giới, vốn ổn định, được duy trì bằng cán cân quyền lực kinh tế và quân sự.
    Ernest J. Wilson III (2008). “Hard Power, Soft Power, Smart Power”, The
    ANNALS of the American Academy of Political and Social Science 2008, mở
    rộng khái niệm quyền lực cứng và quyền lực mềm nhằm giới thiệu khái niệm
    quyền lực thông minh. Ernest J. Wilson định nghĩa: Quyền lực thông minh là khả
    năng một chủ thể kết hợp các thành tố của quyền lực cứng và quyền lực mềm
    thông qua các phương thức tác động qua lại nhằm đạt được mục đích mình mong
    muốn một cách hiệu quả. Tác giả cho rằng phát huy quyền lực thông minh đã trở
    thành vấn đề cấp thiết đối với an ninh của các quốc gia do tác động của những
    thay đổi cấu trúc mang tính dài hạn trong các điều kiện quốc tế và những thất bại
    trong ngắn hạn của chính quyền hiện tại.
    - Các công trình nghiên cứu của Việt Nam:

    4
    Hoàng Khắc Nam (2011), trong cuốn sách Quyền lực trong quan hệ quốc tế:
    Lịch sử và vấn đề, cho rằng: Quyền lực được coi là bản chất, là “máu của sự
    sống” đối với chính trị quốc tế, là động cơ và lợi ích cơ bản của quốc gia trong
    quan hệ quốc tế. Tranh giành quyền lực cũng được coi là nguyên nhân cơ bản dẫn
    đến chiến tranh và xung đột trong lịch sử. Không chỉ là thực tế lớn trong quan hệ
    quốc tế, quyền lực còn là lí luận trung tâm của Chủ nghĩa hiện thực và mối quan
    tâm hàng đầu của nhiều lí thuyết khác. Đồng thời quyền lực cũng là một hệ quy
    chiếu hay lăng kính để giải thích lịch sử, nhất là lịch sử quan hệ quốc tế. Đây là
    một trong những công trình đầu tiên ở Việt Nam nghiên cứu về vấn đề này thông
    qua việc tập hợp, hệ thống hoá những vấn đề cơ bản trong nghiên cứu lí luận về
    quyền lực trong quan hệ quốc tế cả trong lịch sử và hiện tại.
    2.2. Nghiên cứu về tình hình quốc tế, thế và lực của Mỹ
    - Nghiên cứu của nước ngoài
    Trong cuốn sách America’s Global Interests: A New Agenda do Edward K.
    Hamilton chủ biên (Nhà xuất bản New York: W.W. Norton phát hành năm 1989),
    học giả Lawrence Eagleburger đã đưa ra những nhận định các mối đe doạ đối với
    Mỹ trong thế kỷ XXI trở nên đa dạng hơn, trong đó quyền lực và ảnh hưởng phân
    tán giữa nhiều quốc gia.
    Trong cuốn sách Bound to Lead: the Changing Nature of American Power,
    Joseph Nye (1990) cho rằng Mỹ vẫn là cường quốc hàng đầu trong nhiều thập kỷ
    tới và sự suy yếu của Mỹ chỉ có tính chất tương đối trong bối cảnh sự phục hồi
    mạnh mẽ của Nhật Bản và Đức. Tuy nhiên, theo Joseph Nye, sức mạnh của Mỹ
    phụ thuộc vào chính việc Mỹ đối phó với những thách thức mới như thế nào.
    Để phục vụ công tác tuyên truyền về Mỹ, Chương trình Thông tin Quốc tế,
    Bộ Ngoại giao Mỹ đã phát hành nhiều cuốn sách như: Christopher Conte và
    Albert R. Karr (2001), Khái quát nền kinh tế Mỹ, Chương trình Thông tin Quốc tế,
    Bộ Ngoại giao Mỹ (2011), Tóm lược về nền kinh tế Mỹ, Nhà xuất bản Thanh niên.
    Tác giả Trung Quốc Dương Đại Chí (2004) trong bài viết Năm nhân tố lớn
    thúc đẩy chuyển đổi quân sự Mỹ đăng trên Tạp chí Quân sự hiện đại (Trung
    Quốc), số 6/2004, nhận định rằng sau khi chính phủ Bush lên nắm quyền, việc
    chuyển đổi quân sự trở thành vấn đề nóng trong giới quân sự và Bộ Quốc phòng

    5
    Mỹ. Việc đề xuất và phát triển chuyển đổi quân sự của Mỹ có bối cảnh và nguyên
    nhân sâu xa, nói cụ thể có 5 điểm sau: Môi trường an ninh thay đổi nảy sinh nhu
    cầu chuyển đổi quân sự; những điều chỉnh lớn về chiến lược quân sự xác định rõ
    phương hướng chuyển đổi quân sự; ưu thế của khoa học kỹ thuật và kinh tế nâng
    đỡ cho sự phát triển chuyển đổi quân sự; thông qua thực tiễn chiến tranh chống
    khủng bố đẩy nhanh tiến trình chuyển đổi quân sự; những kẻ theo chủ nghĩa bảo
    thủ mới nắm chính quyền tích cực điều khiển việc chuyển đổi quân sự. Năm nhân
    tố trên đây là những cơ sở quan trọng để Mỹ điều chỉnh chiến lược quân sự.
    - Nghiên cứu của Việt Nam
    Ở Việt Nam có một số công trình nghiên cứu có giá trị về tình hình nước Mỹ
    như các cuốn sách: Mỹ điều chỉnh chính sách kinh tế của Nguyễn Thiết Sơn
    (2002), Các vấn đề nghiên cứu về Mỹ của Nguyễn Thái Yên Hương, Tạ Minh
    Tuấn (đồng chủ biên) (2011). Các cuốn sách nghiên cứu về tình hình quốc tế như
    Phạm Bình Minh - chủ biên (2010), Cục diện thế giới đến 2020, Nguyễn Xuân
    Thắng, Nguyễn Mạnh Hùng (2011), Một số đặc điểm nổi bật của thế giới và khu
    vực những năm đầu thế kỷ 21; Đỗ Thanh Bình, Văn Ngọc Thành (2012), Quan hệ
    quốc tế thời hiện đại: Những vấn đề mới đặt ra; Nguyễn Hoàng Giáp (cb),
    Nguyễn Thị Quế, Thái Văn Long (2014), Một số vấn đề chính trị quốc tế trong
    giai đoạn hiện nay Các cuốn sách này đã đưa ra cách tiếp cận mới về một số
    vấn đề nổi bật trong lịch sử quan hệ quốc tế như nguồn gốc Chiến tranh Lạnh;
    quan hệ giữa các cường quốc lớn như Ấn Độ - Trung Quốc, Nga – Trung Quốc,
    Mỹ - Nga ; quan hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á, Liên minh Châu
    Âu, Châu Phi, Châu Mỹ Đây là một số vấn đề mới đặt ra trong quan hệ quốc tế
    thời hiện đại giúp nhận thức toàn diện hơn về cục diện quan hệ quốc tế, đặc biệt là
    giúp hiểu rõ mối quan hệ giữa các cường quốc.
    Ngoài ra, còn có nhiều bài viết có giá trị khi nghiên cứu về thế và lực của
    Mỹ như: Hoàng Khắc Nam (2012), Nước Mỹ - Nhân tố quan trọng trong trật tự
    thế giới?, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 3-2012, Nguyễn Tuấn Minh (2012),
    Nước Mỹ và những thay đổi tương quan sức mạnh địa chính trị thế giới, Tạp chí
    Châu Mỹ ngày nay, số 01.2012

    6
    2.3. Nghiên cứu về nội dung và quá trình triển khai chiến lược quân sự
    của Mỹ
    - Các công trình nghiên cứu của nước ngoài
    Trong cuốn sách “U.S. Army War College Guide to National Security
    Issues. Volume II: National Security Policy and Strategy” do Viện Nghiên cứu
    chiến lược thuộc Trường Đại học Chiến tranh Quân đội Mỹ phát hành tháng
    6/2012, bài viết National military strategies: A historical Perspective, 1990 to
    2012, Richard M. Meinhart (2012) đã tóm lược các chiến lược quân sự quốc gia
    của Mỹ gồm chiến lược của các năm 1989, 1992, 1995, 1997, 2004 và 2011 và có
    một số nhận định về quá trình xây dựng cũng như giá trị của từng chiến lược. Bài
    viết có ưu điểm ở chỗ giúp người đọc hiểu khái quát nhất về thách thức đối với an
    ninh quân sự của Mỹ, mục tiêu và nhiệm vụ của quân đội Mỹ. Mặc dù vậy, bài
    viết có nhiều hạn chế như: Đơn thuần mô tả lại các chính sách quân sự mà Mỹ đã
    ban hành; không phân tích cơ sở xây dựng chiến lược; không có nhận định đánh
    giá về quá trình và kết quả triển khai chiến lược.
    Việc thay đổi chính sách quân sự của Mỹ được nhiều nhà nghiên cứu nước
    ngoài quan tâm nghiên cứu, trong đó có thể kể đến các công trình như: Chiến lược
    an ninh quốc gia Mỹ sau sự kiện 11.9: Những ý nghĩa đối với chính sách ngoại
    giao quân sự và sự chuẩn bị cho chiến tranh thế kỷ XXI của Marvin Leibstone
    (2002) đăng trên Tạp chí Miltech (Đức, số 11/2002), bài viết Về thất bại của Mỹ ở
    Iraq và tác động đối với thế giới của tác giả A.A.Khramchihin (2006) đăng trên
    ấn phẩm “Bình luận quân sự độc lập” của Nga, Đánh giá chính sách của Chính
    quyền Obama tại châu Á của Robert Sutter trên Tạp chí “Châu Á đương đại”
    (Luân Đôn, Anh) số ra tháng 9/2009; Đường lối chính trị quân sự của Mỹ của Đại
    tá D. Zilxov (2011) đăng trên Tạp chí Bình luận quân sự nước ngoài (Nga), số
    7/2011, David R. Francis (2011), Iraq War will Cost More Than World War II,
    www.globalpolicy.org, October 25, 2011; US defense strategic review 2012:
    Global and regional implications trên Tạp chí điện tử Eurasia Review Journal của
    Tiến sĩ Subhash Kapila (Ấn Độ), Rebalancing to Asia with an Insecure China của
    tác giả Ely Ratner (2013) đăng trong Tạp chí The Washington Quarterly, Tập 36,
    Số 2; bài viết A Recommended Agenda for the Next Secretary of Defense của các

    7
    tác giả Andrew Philip Hunter, Ryan Crotty, Gregory Sanders, Maren
    Leed, Melissa Dalton, John Schaus, T.J. Cipoletti (2014) đăng trên www. csis.org,
    4/12/2014
    Ở các bài viết trên đây, các tác giả đều có chung nhận định rằng, mục tiêu cơ
    bản trong chính sách quân sự của Nhà Trắng vẫn là duy trì vị thế lãnh đạo của Mỹ
    trên thế giới như là một siêu cường quân sự và duy trì cả ở trong nước và trên thế
    giới các điều kiện để bảo đảm lợi ích quốc gia trong lĩnh vực an ninh. Để đạt được
    mục tiêu này, Mỹ đưa ra đường lối nâng cao tiềm lực quân sự, tăng cường sức
    mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ trang Mỹ, áp dụng chính sách cứng rắn
    trong mối quan hệ với các chế độ không thân thiện với Mỹ. Trong xây dựng và sử
    dụng các lực lượng vũ trang quốc gia, các khuynh hướng ưu tiên là: lực lượng vũ
    trang phải thích nghi với các điều kiện và yêu cầu của tình hình, duy trì sẵn sàng
    tiến hành các chiến dịch ở các chiến trường xa xôi; nâng cao sẵn sàng chiến đấu
    và tác chiến, bảo đảm thực hiện hiệu quả cơ chế hoạt động thường xuyên.
    Đáng chú ý, các nhà nghiên cứu Trung Quốc có nhiều bài viết đánh giá, bình
    luận về chiến lược quân sự của Mỹ, tiêu biểu là các bài viết: Chiều hướng điều
    chỉnh chiến lược quân sự của Mỹ của tác giả Triệu Dĩnh (2002) đăng trên Tạp chí
    Quân sự hiện đại (Trung Quốc) số 4/2002, Phân tích sơ bộ chiến lược “đánh phủ
    đầu” của chính quyền Bush của tác giả Tưởng Hiểu Yến (2002) đăng trên Tạp chí
    Quan hệ quốc tế hiện đại số 9/2002, Sự chuyển biến chiến lược từ “răn đe kiềm
    chế” sang “phủ đầu trừng phạt” của Mỹ của tác giả Hồ Hân (2002), đăng trên
    Tạp chí “Chính trị và kinh tế thế giới” số tháng 10-2002 . Các tác giả đều có
    chung nhận thức rằng tư duy chiến lược quân sự của Mỹ từ thời Chiến tranh Lạnh
    đến nay thực tế là quá trình từng bước chuyển từ chủ nghĩa hiện thực mang tính
    phòng thủ sang chủ nghĩa hiện thực mang tính tấn công. Quá trình thực hiện chiến
    lược quân sự mới này sẽ làm cho quan hệ quốc tế nảy sinh nhiều xung đột và mâu
    thuẫn mới.
    - Các công trình nghiên cứu của Việt Nam
    Về xu hướng can thiệp quân sự của Mỹ thời kỳ sau chiến tranh Lạnh, Tạp
    chí nghiên cứu quốc tế số 29/1999, Lê Linh Lan (1999) cho rằng chiến lược quân
    sự của chính quyền Mỹ phải dựa trên xây dựng lực lượng vũ trang mạnh, đủ sức

    8
    khống chế đồng minh và đủ khả năng đối phó với những thách thức và đe dọa đối
    với Mỹ sau chiến tranh Lạnh.
    Đan Gia Bách (2005), trong Mấy đặc tính trong sự chuyển biến tư duy quân
    sự Mỹ, Tạp chí Quốc phòng toàn dân số tháng 8-2005 cho rằng, việc chuyển biến
    tư duy quân sự trong quá trình hoạch định và thực thi chiến lược chuyển loại hình
    quân sự Mỹ có các đặc tính sau: (1) nhấn mạnh tính phi đối xứng của lực lượng
    quân sự và hiệu năng tác chiến của Mỹ so với các nước khác; (2) tính tích cực
    sáng tạo và sự mạo hiểm đúng mức trong tư duy quân sự; (3) tính thống nhất giữa
    lợi ích quân sự với lợi ích quốc gia.
    Sau khi ông Obama trở thành tổng thống, có nhiều công trình phân tích,
    đánh giá về sự thay đổi của chiến lược quân sự Mỹ, tiêu biểu như: Nhân tố quân
    sự trong chính sách đối ngoại của chính quyền Obama của tác giả Hoàng Toan
    (2010) đăng trên Tạp chí Kiến thức quốc phòng hiện đại số 03.2010, Chiến lược
    quân sự mới của Mỹ và những “hệ lụy” của nó của Minh Đức (2011), Tạp chí
    Quốc phòng toàn dân điện tử; Chính sách của chính quyền Obama đối với Trung
    Quốc trong lĩnh vực an ninh - quân sự của Nguyễn Thị Thanh Thủy (2013), Tạp
    chí Nghiên cứu quốc tế số 92 (3/2013) . Các tác giả cho rằng chiến lược quân sự
    của Mỹ dưới thời tổng thống Obama đã có những điều chỉnh căn bản về phương
    châm, phương thức chiến lược, theo hướng linh hoạt hơn, đa phương hơn; chia sẻ
    trách nhiệm an ninh với các đồng minh; tranh thủ những điểm tương đồng, lợi ích
    chung để mở rộng quan hệ hợp tác với các nước trong giải quyết những vấn đề
    khu vực và thế giới. Chiến lược quân sự của Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự,
    các khả năng nâng cao sức mạnh tác chiến và sức mạnh ngăn chặn ở châu Á-Thái
    Bình Dương. Nhận thức chung của các tác giả là Mỹ điều chỉnh chiến lược quân
    sự thực chất chỉ là thay đổi, điều chỉnh phương thức tập hợp lực lượng để đối phó
    với những thách thức mới nổi (như Trung Quốc) nhằm tiếp tục thiết lập một trật
    tự thế giới do Mỹ đóng vai trò là người lãnh đạo.
    Tóm lại, các công trình nghiên cứu được đề cập trên đây đều liên quan trực
    tiếp và gián tiếp đến chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ ở nhiều khía cạnh khác
    nhau. Tuy nhiên, ở Việt Nam, hầu như chưa thấy có một công trình nghiên cứu cách

    9
    hệ thống về chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ dưới góc độ quan hệ quốc tế.
    3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
    3.1. Mục tiêu nghiên cứu
    Làm rõ nội dung, bản chất chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ từ năm 2001
    đến nay và tác động của việc triển khai chiến lược này đến nước Mỹ và cục diện
    an ninh, chính trị tại khu vực Trung Á, Trung Đông – Bắc Phi, châu Âu và châu Á
    – Thái Bình Dương.
    3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    Để đạt được mục tiêu nghiên cứu nêu trên, Luận án thực hiện các nhiệm vụ
    nghiên cứu sau đây:
    Thứ nhất, phân tích, làm rõ cơ sở hoạch định chiến lược quân sự toàn cầu
    của Mỹ giai đoạn 2001-2015 trên phương diện lý thuyết và thực tiễn.
    Thứ hai, phân tích, làm rõ nội dung và quá trình triển khai chiến lược quân
    sự toàn cầu của Mỹ giai đoạn 2001-2015, từ đó rút ra đặc điểm chiến lược quân
    sự toàn cầu của Mỹ.
    Thứ ba, đánh giá tác động của việc Mỹ triển khai chiến lược quân sự toàn cầu
    giai đoạn 2001-2015 đến nước Mỹ và cục diện an ninh, chính trị quốc tế (cụ thể là
    khu vực Trung Á, Trung Đông – Bắc Phi, châu Á – Thái Bình Dương, châu Âu).
    4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
    - Đối tượng nghiên cứu: Chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ từ năm 2001
    đến năm 2015.
    - Phạm vi nghiên cứu:
    + Không gian nghiên cứu: Luận án tập trung vào nội dung chiến lược quân
    sự toàn cầu của Mỹ và việc triển khai các hoạt động quân sự chủ yếu của Mỹ tại
    khu vực Trung Á, Trung Đông - Bắc Phi, châu Á – Thái Bình Dương, châu Âu.
    + Giới hạn thời gian nghiên cứu từ năm 2001 đến năm 2015.
    5. Phương pháp nghiên cứu
    Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
    Minh, lý thuyết quan hệ quốc tế (chủ nghĩa Hiện thực, chủ nghĩa Tự do), Luận án
    sử dụng các phương pháp nghiên cứu quan hệ quốc tế gồm phương pháp các cấp

    10
    độ phân tích, lịch sử, phân tích chính sách, hệ thống và một số phương pháp
    nghiên cứu khác như tổng hợp, so sánh - đối chiếu, chuyên gia.
    6. Đóng góp của luận án
    Về mặt lý luận, Luận án là công trình nghiên cứu có hệ thống về chiến lược
    quân sự toàn cầu của Mỹ (2001-2015) từ góc độ của nhà nghiên cứu Việt Nam.
    Luận án làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của quá trình hoạch định, triển khai
    chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ; chỉ ra những vấn đề cơ bản của chiến lược
    quân sự toàn cầu của Mỹ và tác động của chiến lược này đến nước Mỹ và an ninh,
    chính trị quốc tế.
    Về mặt thực tiễn, Luận án góp phần làm phong phú thêm những nghiên cứu
    cơ bản về Mỹ nói chung và về chiến lược quân sự của Mỹ nói riêng. Kết quả
    nghiên cứu của Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng
    dạy, nghiên cứu quan hệ quốc tế liên quan đến chính sách đối ngoại của Mỹ tại
    các học viện, nhà trường, viện nghiên cứu cũng như các cơ quan, tổ chức có liên
    quan khác. Có thể tham khảo kết quả nghiên cứu trong hoạch định chính sách đối
    ngoại quốc phòng của Việt Nam trong quá trình Mỹ tăng cường hiện diện quân sự
    tại châu Á – Thái Bình Dương.
    7. Bố cục của luận án
    Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
    Luận án được kết cấu thành 03 chương:
    Chương 1: Cơ sở hoạch định chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ giai đoạn
    2001-2015
    Chương này trình bày một số luận điểm của chủ nghĩa Hiện thực và chủ
    nghĩa Tự do về sử dụng sức mạnh quân sự trong quan hệ quốc tế; phân tích tư duy
    quân sự Mỹ; trình bày bối cảnh quốc tế giai đoạn 2001-2015, tập trung phân tích
    những thách thức chủ yếu đối với quân sự Mỹ; tình hình nước Mỹ trên các mặt:
    sức mạnh tổng hợp quốc gia Mỹ, tình hình chính trị, nội bộ Mỹ, lợi ích và quan hệ
    giữa các tập đoàn công nghiệp - quân sự và chính phủ Mỹ và kết quả triển khai
    chiến lược quân sự của Mỹ dưới thời Tổng thống Bill Clinton.

    11
    Chương 2: Nội dung và quá trình triển khai chiến lược quân sự toàn cầu
    của Mỹ giai đoạn 2001 - 2015.
    Chương này trình bày nội dung chủ yếu của chiến lược quân sự toàn cầu của
    Mỹ từ năm 2001 đến năm 2015 gồm: Mục tiêu chiến lược, nhiệm vụ trọng tâm
    của lực lượng quân sự Mỹ, đối tượng chiến lược, các loại hình chiến tranh. Đồng
    thời, khái quát quá trình triển khai hoạt động quân sự tiêu biểu của Mỹ giai đoạn
    2001 – 2015, rút ra đặc điểm chiến lược quân sự toàn cầu của Mỹ.
    Chương 3: Tác động của việc triển khai chiến lược quân sự toàn cầu của
    Mỹ đến nước Mỹ và an ninh, chính trị quốc tế
    Chương này trình bày tác động của việc triển khai chiến lược quân sự toàn
    cầu của Mỹ đến nước Mỹ trên các mặt như vị thế, quyền lực của nước Mỹ, tác
    động đến việc thực hiện các mục tiêu an ninh quốc gia, tác động đến kinh tế Mỹ.
    Đồng thời cũng tập trung phân tích, đánh giá tác động từ các hoạt động quân sự của
    Mỹ đến cục diện an ninh, chính trị tại khu vực Trung Á, Trung Đông – Bắc Phi,
    châu Âu và châu Á - Thái Bình Dương.
     
Đang tải...