Tài liệu Chiến lược kinh doanh hiệu quả

Thảo luận trong 'Kinh Tế Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Lời giới thiệu
    Một chiến lược hiệu quả kèm theo việc thực hiện xuất sắc là sự đảm bảo tốt nhất cho
    thành công của mọi tổ chức. Đây cũng l à một minh chứng không thể phủ nhận về năng
    lực của người quản lý.
    Cuốn sách “Chiến lược kinh doanh hiệu quả” này tuy không giúp bạn trở thành một
    chuyên gia về chiến lược, song cuốn sách trình bày tất cả chủ đề quan trọng để bạn có
    được một nền tảng kiến thức cơ bản cùng sự khởi đầu đầy tự tin khi hoạch định v à thực
    hiện chiến lược cho tổ chức của mình.
    Chiến lược là gì?
    Theo nghĩa thông thường, chiến lược (xuất phát từ gốc từ Hy Lạp là strategos) là một
    thuật ngữ quân sự được dùng để chỉ kế hoạch dàn trận và phân bố lực lượng với mục tiêu
    đánh thắng kẻ thù. Carl von Clausewitz - nhà binh pháp của thế kỷ 19 - đã mô tả chiến
    lược là “lập kế hoạch chiến tranh và hoạch định các chiến dịch tác chiến. Những chiến
    dịch ấy sẽ quyết định sự tham gia của từng cá nhân”. Gần đây hơn, sử gia Edward Mead
    Earle đã mô tả chiến lược là “nghệ thuật kiểm soát và dùng nguồn lực của một quốc gia
    hoặc một liên minh các quốc gia nhằm mục đích đảm bảo v à gia tăng hiệu quả cho quyền
    lợi thiết yếu của mình”.
    Ngày nay, các tổ chức kinh doanh cũng áp dụng khái niệm chiến lược tương tự như trong
    quân đội. Chiến lược là kế hoạch kiểm soát và sử dụng nguồn lực của tổ chức nh ư con
    người, tài sản, tài chính nhằm mục đích nâng cao và bảo đảm những quyền lợi thiết
    yếu của mình. Kenneth Andrews là người đầu tiên đưa ra các ý tưởng nổi bật này trong
    cuốn sách kinh điển The Concept of Corporate Strategy. Theo ông, chiến lược là những
    gì mà một tổ chức phải làm dựa trên những điểm mạnh và yếu của mình trong bối cảnh
    có những cơ hội và cả những mối đe dọa.
    Bruce Henderson, chiến lược gia đồng thời là nhà sáng lập Tập đoàn Tư vấn Boston đã
    kết nối khái niệm chiến lược với lợi thế cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh l à việc đặt một
    công ty vào vị thế tốt hơn đối thủ để tạo ra giá trị về kinh tế cho khách h àng. Henderson
    viết rằng “Chiến lược là sự tìm kiếm thận trọng một kế hoạch hành động để phát triển và
    kết hợp lợi thế cạnh tranh của tổ chức. Những điều khác biệt giữa bạn và đối thủ cạnh
    tranh là cơ sở cho lợi thế của bạn”. Henderson tin rằng không thể cùng tồn tại hai đối thủ
    cạnh tranh nếu cách kinh doanh của họ giống hệt nhau. Cần phải tạo ra sự khác biệt mới
    có thể tồn tại. Michael Porter cũng tán đồng nhận định của Henderson: “Chiến lược cạnh
    tranh liên quan đến sự khác biệt. Đó là việc lựa chọn cẩn thận một chuỗi hoạt động khác
    biệt để tạo ra một tập hợp giá trị độc đáo”.
    Hãy xem những ví dụ điển hình sau:
    Southwest Airlines đã trở thành một hãng hàng không có lợi nhuận cao nhất Bắc Mỹ nhờ
    vào việc tự tạo cho mình sự khác biệt bằng chiến lược kinh doanh đặc biệt: bán vé giá
    thấp, khởi hành thường xuyên, phục vụ chu đáo và cung cấp dịch vụ làm hài lòng khách
    hàng.
    Cách thức kinh doanh theo kiểu bán đấu giá trực tuyến đã tạo ra một sự khác biệt lớn cho
    eBay. Mục đích của eBay là phục vụ quảng cáo rao vặt, kinh doanh tr ên mạng, và mở các
    phiên đấu giá chính thức, nhưng với cách thức đơn giản, hiệu quả và phổ biến. Sàn bán
    đấu giá trực tuyến này đã làm eBay trở nên khác biệt so với các đối thủ cạnh tranh truyền
    thống.
    Chiến lược của Toyota trong việc phát triển xe Prius sử dụng động cơ hybrid(1) đã tạo ra
    lợi thế cạnh tranh trong một phân khúc thị trường ô tô quan trọng: những khách h àng
    muốn có một chiếc xe không gây ô nhiễm môi trường, ít tiêu hao năng lượng, hoặc loại ô
    tô với kỹ thuật tiên tiến nhất.
    Nhờ những chiến lược tạo sự khác biệt này, các công ty trên đã có được lợi thế cạnh tranh
    so với đối thủ. Southwest Airlines là hãng hàng không Mỹ có lợi nhuận cao nhất, còn
    eBay là công ty thương mại điện tử thành công nhất. Trong khi đó, Toyota có danh sách
    khách hàng đăng ký mua xe hybrid dài đến bốn tháng. Sự khác biệt có thể thể hiện ở
    nhiều hình thức. Ngay cả những sản phẩm giống nhau vẫn có thể trở nên khác biệt nhờ
    giá cả tốt hơn, khả năng cung cấp nhanh hơn hay việc giao hàng uy tín hơn.
    Dĩ nhiên, bản thân sự khác biệt không đủ để tạo lợi thế cạnh tranh hay đảm bảo sự thành
    công trong kinh doanh. Sự khác biệt ấy phải đem lại giá trị hữu dụng cho khách h àng.
    Một chiếc xe tốc độ cao có thể “khác biệt” nhưng vẫn không đủ sức thu hút khách h àng.
    Trong khi đó, một chiếc xe hybrid chạy bằng xăng v à điện lại khác biệt theo cách tạo ra
    giá trị cao hơn cho khách hàng là tiết kiệm nhiên liệu và ít xả khí ô nhiễm. Đó là những
    giá trị được khách hàng đánh giá cao.
    Vậy chiến lược là gì? Chiến lược là một kế hoạch nhằm đem lại cho tổ chức một lợi thế
    cạnh tranh so với đối thủ. Chiến lược là hiểu được mục tiêu của những việc bạn đang l àm
    và tập trung vào việc lập kế hoạch để đạt được mục tiêu đó. Một chiến lược tốt, được
    thực hiện hiệu quả sẽ giúp các nhà quản lý và nhân viên mọi cấp xác định mục tiêu, nhận
    biết phương hướng hành động, góp phần vào sự thành công của tổ chức. Trái lại, một tổ
    chức không có chiến lược rõ ràng chẳng khác nào con thuyền không người lái.
    Chiến lược được áp dụng ở cả cấp công ty v à phòng ban. General Electric có nhiều bộ
    phận hoạt động trong những lĩnh vự c khác nhau: động cơ máy bay, thiết bị gia dụng, dịch
    vụ vốn, hệ thống chiếu sáng, y tế, nhựa dẻo, hệ thống điện, phân phối v à kiểm soát điện.
    Thậm chí công ty còn sở hữu cả NBC - một trong các mạng truyền hình lớn của Mỹ. Mỗi
    bộ phận đều có những chiến lược hoạt động riêng nhưng phải phù hợp với chiến lược
    tổng thể của công ty.
    Chiến lược và mô hình kinh doanh
    Một số người nhầm lẫn chiến lược với mô hình kinh doanh. Thuật ngữ mô hình kinh
    doanh bắt đầu được sử dụng rộng rãi vào cuối thập niên 1980 – thời điểm mà máy tính cá
    nhân và phần mềm đã trở nên phổ biến. Nhờ sự đổi mới phần mềm mà các công ty có thể
    dễ dàng “lập mô hình” cho chi phí và doanh thu liên quan đến mọi hoạt động kinh doanh.
    Sau khi đã lập mô hình này, chỉ cần một vài lần nhấn phím là có thể biết được tác động
    của những thay đổi đối với lợi nhuận – ví dụ: thay đổi về đơn giá, tỷ lệ lợi nhuận trên
    doanh thu và giá của nhà cung ứng. Các báo cáo tài chính theo quy ư ớc là những chứng
    từ chính yếu để lập mô hình kinh doanh. Khi thương mại điện tử bắt đầu phát triển mạnh
    mẽ, thuật ngữ này trở nên thông dụng. Tuy nhiên, đa phần mọi người đều không thể diễn
    đạt chính xác ý nghĩa của cụm từ n ày.
    Các nhà nghiên cứu định nghĩa mô hình kinh doanh là nền tảng kinh tế của chiến lược, là
    cơ chế, cách thức để công ty sản xuất và phân phối sản phẩm hay dịch vụ. Mô hình kinh
    doanh ít liên quan đến những gì làm cho sản phẩm hay dịch vụ ấy trở nên khác biệt cũng
    như những gì đem lại lợi thế cạnh tranh. Mô hình kinh doanh trả lời những câu hỏi sau:
    Điều này có tác dụng như thế nào? Bằng cách nào chúng ta có thể chuyển giao giá trị cho
    khách hàng với chi phí hợp lý?
    Mọi tổ chức nếu muốn tồn tại cần đ ược xây dựng trên một mô hình kinh doanh hiệu quả,
    nhưng mô hình kinh doanh không phải là chiến lược. Mô hình kinh doanh mô tả cách
    thức các bộ phận của một tổ chức được gắn kết với nhau thành hệ thống để tạo ra lợi
    nhuận, nhưng chúng không đóng vai trò trong việc cạnh tranh - khía cạnh quan trọng của
    năng lực hoạt động. Cạnh tranh là nhiệm vụ của chiến lược.
    Những công ty lớn mạnh và thu được nhiều lợi nhuận nhất đều bắt nguồn từ mô hình
    kinh doanh hiệu quả. eBay là một ví dụ điển hình. Công ty này bắt nguồn từ một mô hình
    kinh doanh rất đơn giản và truyền thống. Giống như một công ty điện thoại đường dài,
    eBay đã tạo ra một cơ sở hạ tầng cho phép mọi người giao tiếp với nhau với một mức phí
    khiêm tốn mỗi lần sử dụng. Cơ sở hạ tầng của công ty dựa tr ên nền tảng trang Web điện
    tử gồm phần mềm, máy chủ và các quy tắc cho phép người mua, người bán gặp nhau và
    thực hiện các giao dịch cho mọi loại hàng hóa. Công ty không tham gia vào các giao d ịch
    này nên tránh được nhiều chi phí. Trách nhiệm duy nhất của công ty là duy trì hệ thống
    thông tin và sự trung thực của quy trình đấu giá.
    Mô hình eBay thật đơn giản với vai trò là một cơ chế phát sinh thu nhập. Doanh thu của
    eBay là từ phí của người bán. Doanh thu này sẽ trang trải cho chi phí xây dựng, duy tr ì cơ
    sở hạ tầng trực tuyến, tiếp thị thường xuyên, phát triển sản phẩm, chi phí quản lý để
    doanh nghiệp hoạt động cũng như thu hút người mua và người bán đến website. Giá trị
    thực của những doanh thu và chi phí này là lợi nhuận cho các cổ đông của eBay. Ngoài
    tính đơn giản, sức mạnh của mô hình eBay còn nằm ở chỗ chỉ cần tuyển dụng một số ít
    nhân viên chính thức và các cộng tác viên bên ngoài là họ có thể đảm nhận một lượng
    giao dịch khổng lồ ngày càng tăng. Hơn thế nữa, khối lượng giao dịch (và doanh thu) có
    thể tăng gấp đôi chỉ nhờ những khoản đầu t ư tương đối khiêm tốn. Hoạt động này khác
    nhiều với chiến lược đã định của công ty, đó là xây dựng và hỗ trợ đắc lực thị trường trên
    mạng, một thị trường phong phú và hiệu quả nhất – một thị trường mà bất kỳ ai, ở bất cứ
    nơi đâu, đều có thể mua bán hầu như mọi thứ.
    Từ ví dụ này ta có thể thấy chiến lược và mô hình kinh doanh là những khái niệm khác
    nhau, dù chúng có liên quan đến nhau. Chiến lược tạo nên sự khác biệt và đem lại lợi thế
    cạnh tranh, còn mô hình kinh doanh giải thích các khía cạnh kinh tế về cách thức m à tổ
    chức hoạt động và tìm kiếm lợi nhuận.
    Quy trình chiến lược
    Quy trình chiến lược là một tập hợp các hoạt động biến đầu vào thành đầu ra. Quy trình
    này được trình bày trong hình I-1. Chiến lược được lập dựa trên nhiệm vụ của công ty.
    Nhiệm vụ này xác định mục tiêu và những gì cần làm cho khách hàng cũng như những
    thành phần liên quan khác. Căn cứ vào nhiệm vụ này, cấp lãnh đạo sẽ định ra các mục
    tiêu. Những mục tiêu này là biểu hiện rõ ràng cho nhiệm vụ của tổ chức và được dùng để
    lập kế hoạch hành động và đánh giá quy trình. Như được trình bày trong hình vẽ, những
    mục tiêu này nên được dẫn dắt bằng kiến thức thực tế cả về môi tr ường marketing/kinh
    doanh bên ngoài lẫn về năng lực của tổ chức.
    Thông thường, việc lập chiến lược bắt đầu bằng cách nghiên cứu rộng rãi và phân tích,
    đồng thời thực hiện một quy tr ình mà thông qua đó cấp lãnh đạo nhận biết được những
    vấn đề ưu tiên hàng đầu mà tổ chức cần giải quyết để thành công về lâu dài. Đối với mỗi
    vấn đề ưu tiên, các phòng ban và nhóm lập ra các kế hoạch hành động cấp cao. Một khi
    đã triển khai những kế hoạch hành động này, các mục tiêu và định hướng chiến lược cấp
    cao của tổ chức sẽ được làm rõ hơn._
    Việc lập chiến lược có thể mất thời gian và đòi hỏi có sự trao đổi nhiều lần giữa cấp quản
    lý và các phòng ban, để tất cả các bên cùng xem xét, thảo luận và hoàn thiện kế hoạch.
    Do đó, nhiều chiều hướng lập kế hoạch khác nhau có thể diễn ra song song. Việc các
    phòng ban tham gia vào quy trình hoạch định chiến lược đóng vai trò quan trọng. Các
    phòng ban có kiến thức phong phú về năng lực cũng nh ư môi trường cạnh tranh mà họ
    hoạt động, có thể đưa ra những đề xuất sáng suốt về những gì tổ chức nên thực hiện. Hơn
    thế nữa, những phòng ban được đưa vào quy trình hoạch định có nhiều khả năng hơn
    trong việc hỗ trợ và thực hiện các kế hoạch đề ra. Ph òng ban chính là các trung tâm thực
    hiện chiến lược, họ có quyền lãnh đạo, có nguồn nhân lực và các kỹ năng cần thiết để
    thực hiện hiệu quả.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...