Tài liệu Chế độ pháp lý về việc làm ở Việt Nam - những vấn đề cần hoàn thiện

Thảo luận trong 'Kinh Tế Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Đề tài: Chế độ pháp lý về việc làm ở Việt Nam - những vấn đề cần hoàn thiện

    PHẦN MỞ ĐẦU1. Tính cấp thiết của đề tài
    Việc làm một vấn đề cấp thiết và bức xúc mà xã hội nào cũng cần quan tâm và giải quyết. Để một quốc gia phát triển giàu mạnh, để có một nền kinh tế ổn định, phồn vinh thì chúng ta phải tạo điều kiện cho mọi lao động trong xã hội đều có việc làm.
    Vấn đề đặt ra đối với mỗi quốc gia nói chung và nước ta nói riêng về việc làm là làm sao giải quyết thoả đáng nhu cầu việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm, đó là trách nhiệm của Nhà nước, của các Doanh nghiệp và toàn xã hội.
    Trải qua hàng nghìn năm, cùng với những biến đổi thăng trầm của lịch sử đất nước, vấn đề việc làm ở nước ta đã có những chuyển biến đáng kể do được Nhà nước quan tâm và có những biện pháp cụ thể để giải quyết nhu cầu về việc làm trong từng giai đoạn lịch sử. Chúng ta đã cố gắng tránh để tình trạng dư thừa lao động, thiếu việc làm.
    Thực tế đã cho chóng ta thấy nhu cầu giải quyết việc làm là cần thiết và bức xúc như thế nào? Việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của mỗi quốc gia nhằm góp phần đảm bảo an toàn ổn định và phát triển xã hội. Ở nước ta, do tỷ lệ sinh tự nhiên rất cao (khoảng 2%) hàng năm chúng ta phải tiếp nhận chừng một triệu lao động để tham gia vào các quan hệ lao động, trong khi đó tỷ lệ thất nghiệp ở nước ta lại khá cao. So với năm 1996 tỷ lệ thất nghiệp là 6,74% đến năm 1999 đã tăng thêm khoảng 2%, đặc biệt tỷ lệ thất nghiệp trong lao động nữ lên tới 7,42% (1).
    Để giảm tỷ lệ thất nghiệp trong cả nước, đồng thời phải tìm ra biện pháp khả thi để giải quết việc làm cho người lao động. Nhà nước cùng với Bộ lao động thương binh - xã hội và các Bộ có liên quan ban hành nhiều văn bản pháp luật nhằm tạo nhiều thuận lợi, khuyến khích các hình thức tạo việc làm, phát triển nhiều hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm để giúp người lao động tìm kiếm được việc làm nhanh chóng và người cần lao động dễ dàng trong việc tuyển dụng. Đó là những quy định trong Bộ luật lao động, trong chiến lược việc làm ở nước ta từ 2001 - 2005, trong các văn bản pháp luật khác.
    Để thực hiện tốt chính sách việc làm, nhà nước ban hành nhiều văn bản pháp luật quy định về vấn đề này. Những kết quả đạt được dựa trên chế độ pháp lý về việc làm trong thời gian qua rất đáng ghi nhận, song qua thực tiễn áp dụng chế độ trên đã bộc lộ một số bất cập cần sửa đổi, bổ sung cho hoàn thiện. Đó là lý do em chọn đề tài “Chế độ pháp lý về việc làm ở Việt Nam- những vấn đề cần hoàn thiện” làm khoá luận tốt nghiệp.
    2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
    Mục đích nghiên cứu của đề tài là phân tích chế độ pháp lý về việc làm ở nước ta trong điều kiện nền kinh tế thị trường, trên cơ sở đó đưa ra các kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện chế độ này.
    Để đạt được mục đích trên, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau:
    - Phân tích các quy định của pháp luật hình thành nên chế độ pháp lý về việc làm ở nước ta.
    - Tìm hiểu về thực trạng việc làm ở nước ta trong các khu vực thành thị, nông thôn, các vùng miền khác nhau của đất nước trong thời gian vừa qua để từ đó thấy được sự cần thiết phải giải quyết việc làm trong thời gian tới.
    - Kiến nghị một số giải pháp góp phần hoàn thiện chế độ pháp lý về việc làm ở nước ta.
    3. Phạm vi nghiên cứu
    Phạm vi nghiên cứu của đề tài là chế độ pháp lý về việc làm ở nước ta trong thời gian qua.
    4. Phương pháp nghiên cứu
    Về phương pháp luận: Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam về việc làm và giải quyết việc làm. Ngoài ra để hoàn thành đề tài, tác giả còn sử dụng các phương pháp cụ thể như: Phương pháp phân tích, so sánh, khảo sát, thực tiễn để thu thập số liệu, kết hợp nghiên cứu giữa lý luận với thực tiễn.
    5. Bố cục của luận văn
    Bố cục của luận văn bao gồm: Phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và ba chương.
    - Chương 1: Chế độ pháp lý về việc làm ở nước ta.
    - Chương 2: Tình hình việc làm và vấn đề giải quyết việc làm ở nước ta trong nền kinh tế thị trường.
    - Chương 3: Việc làm ở Việt Nam - Những vấn đề cần hoàn thiện.

    Chương 1
    CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ VIỆC LÀM Ở NƯỚC TA.
    1.1. Vai trò của việc làm trong đời sống xã hội.
    Vấn đề việc làm đã được đặt ra nghiên cứu trong nhiều đề tài cấp Bộ và cấp Nhà nước, đồng thời được nhiều cơ quan nhà nước, tổ chức nghiên cứu (Các cơ quan quản lý Nhà nước, các tổ chức xã hội như thanh niên, phụ nữ, công đoàn .), việc làm đóng vai trò hết sức quan trọng trong đời sống xã hội.
    Trước hết, việc làm đang là vấn đề kinh tế - xã hội bức xúc và nhạy cảm ở nước ta vì nó đã gõ cửa đến từng gia đình, là yếu tố kìm hãm tăng trưởng kinh tế và là nguyên nhân, nguồn gốc sâu xa gây ra nhiều tiêu cực cho xã hội. Vì vậy, chúng ta phải giải quyết nhu cầu việc làm một cách kịp thời. Nếu không giải quyết sẽ trở thành mầm mống gây nên “những điểm nóng”, những vấn đề xã hội gay gắt và có thể dẫn đến mất ổn định về kinh tế, xã hội.
    Thực tế, việc làm đảm bảo nguồn thu nhập, đảm bảo cuộc sống hàng ngày của mọi tầng lớp dân cư, nâng cao dần mức sống của cộng đồng. Điều đó thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế xã hội đất nước. Nó không chỉ tạo ra của cải vật chất cho bản thân người lao động, cho gia đình, cho xã hội mà còn góp phần làm ổn định tình hình xã hội. Các tệ nạn xã hội và tội phạm đang được giảm dần nhờ giải quyết tốt nhu cầu việc làm cho mọi lao động. Giải quyết việc làm là chúng ta đang thực hiện và hướng vào mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh”.
    Qua đó, chúng ta càng thấy việc làm không những đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội mà nó còn có ý nghĩa sâu sắc với toàn xã hội.Việc làm là một trong những chính sách xã hội cơ bản nhất của quốc gia, góp phần đảm bảo an toàn, ổn định và phát triển xã hội. Kết quả điều tra xã hội học đều cho thấy vấn đề xã hội lớn nhất ở nước ta hiện nay là giải quyết công ăn việc làm cho người lao động. Nguyện vọng và nhu cầu lớn nhất của thanh niên, nhất là thanh niên thành thị, hiện nay trước tiên vẫn là vấn đề việc làm.
    Thiết nghĩ, việc làm là vấn đề mà toàn xã hội đang trăn trở để tìm những biện pháp giải quyết hợp lý kịp thời, có hiệu quả. Một đất nước có thực sự vững vàng về kinh tế hay không? ổn định chính trị - xã hội không và giàu mạnh hay nghèo đói đó là tuỳ thuộc vào vấn đề giải quyết việc làm ở quốc gia đó. Hàng năm chúng ta có trên một triệu người đến tuổi lao động cần việc làm nên vấn đề này được Nhà nước quan tâm rất thoả đáng. Trách nhiệm của Nhà nước và xã hội phải đặc biệt quan tâm trợ giúp những đối tượng như chưa có việc làm, rơi vào tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm để không trở thành vấn đề xã hội gay cấn, trở thành điểm nóng làm mất ổn định và an toàn xã hội. Tạo công ăn việc làm cho người lao động là đang góp phần phát triển đất nước, đưa đất nước ta thực sự là một Nhà nước của dân, do dân và vì dân. Chúng ta tin tưởng rằng cùng với sự quan tâm của Nhà nước, sự nổ lực của xã hội và bản thân mỗi công dân - vấn đề việc làm và giải quyết nhu cầu về việc làm sẽ đạt hiệu quả cao.
    1.2. Khái niệm việc làm.
    Theo từ điển “Kinh tế khoa học xã hội”, xuất bản năm 1996 tại Pari, việc làm được định nghĩa nh­ sau: “ là công việc mà người lao động tiến hành có được thu nhập bằng tiền hoặc hiện vật”. Khái niệm việc làm được hiểu, xem xét ở hai trạng thái “Động và tĩnh”. ở trạng thái “động” việc làm là hoạt động của mọi tầng lớp dân cư nhằm tạo ra những thu nhập có lợi cho cá nhân, cho cộng đồng trên cơ sở những quy định của pháp luật. Việc làm luôn là hoạt động có mục đích của con người, là hình thức vận dụng sức lao động kết hợp với các yếu tố vật chất, kỹ thuật trong xã hội và được tiến hành trong một không gian và thời gian nhất định. Còn ở trạng thái “tĩnh” việc làm dùng để chỉ nhu cầu sử dụng sức lao động cùng các yếu tố vật chất - kỹ thuật khác nhằm mục đích tạo ra thu nhập hoặc mang lại những kết quả có Ých cho cá nhân, cho cộng đồng. Nh­ vậy việc làm là tổng thể các hoạt động kinh tế được thực hiện dựa vào “sự cho phép” của pháp luật có liên quan đến đối tượng, đến sự thu nhập của dân cư trong xã hội.
    Việc làm là hoạt động kinh tế - xã hội rất đa dạng và phong phú. Hiện nay trên thế giới,người ta có thể căn cứ vào nhiều tiêu thức khác nhau để xác định hoạt động nào là việc làm, hoạt động nào không phải là việc làm. Với việc tổng kết nhiều cuộc điều tra thống kê lao động và việc làm ở nhiêù nước, tổ chức lao động quốc tế (ICO) cho rằng: Khái niệm về việc làm không nhất thiết áp dụng cứng nhắc, rập khuôn cho mọi nước mà vì điều kiện cụ thể để đưa ra khái niệm phù hợp với ý nghĩa thực tế cho nước mình.
    Trước đây, trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội thừa nhận, trân trọng là người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh - khu vực nhà nước và kinh tế tập thể. Trong cơ chế đó, Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động từ A đến Z. Do đó, trong xã hội không thừa nhận có hiện tượng thất nghiệp, việc làm không đầy đủ .nay chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, quan niệm về việc làm đã thay đổi một cách căn bản.
    Bằng việc phân tích mối quan hệ giữa dân số và việc làm tác giả Đặng Xuân Thao (1) đã đưa ra khái niệm: “việc làm là hoạt động có Ých, không bị pháp luật ngăn cấm có thu nhập hoặc tạo điều kiện tăng thêm thu nhập cho người thân, gia đình hoặc cộng đồng”. Trên cơ sở quan niệm về việc làm của tổ chức lao động quốc tế và nghiên cứu điều kiện cụ thể của Việt Nam thì khái niệm được nhiều người đồng tình về người có việc làm như sau: Người có việc làm là người làm việc trong những lĩnh vực, ngành nghề, dạng hoạt động có Ých, không bị pháp luật ngăn cấm, đem lại thu nhập để nuôi sống bản thân và gia đình, đồng thời đóng góp một phần cho xã hội.
    Khái niệm việc làm được chính thức quy định tại điều 13 BLLĐ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam “Mọi hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”. Từ khái niệm trên có thể hiểu việc làm gồm có:
    - Các công việc được trả công dưới dạng bằng tiền hoặc hiện vật.
    - Những công việc tự làm để tạo ra thu nhập và thu lợi nhuận cho bản thân hoặc chỉ thu lợi cho gia đình mình nhưng không được trả công cho công việc đó.
    Sù thay đổi nhận thức về việc làm có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội: Từ chỗ chỉ có việc làm trong cơ quan Nhà nước mới được coi là có việc làm và giải quyết việc làm là trách nhiệm duy nhất của Nhà nước thì nay pháp luật khẳng định nhận thức mới của xã hội về vấn đề này là: Mọi hoạt động lao động - xã hội tạo ra thu nhập không bị pháp luật cấm đều thừa nhận là việc làm. Và cũng từ đấy nhận thức về giải quyết việc làm trong xã hội cũng đã thay đổi cơ bản, nó không chỉ thuộc trách nhiệm của Nhà nước mà là trách nhiệm của các doanh nghiệp, các tổ chức, xã hội, của toàn xã hội và của mọi người lao động.
    1.3. Một số vấn đề có tính nguyên tắc về việc làm
    a. Đối với Nhà nước và xã hội
    Điều 15 Bộ luật lao động đã quy định: Chính phủ lập chương trình quốc gia về việc làm, dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội, di dân phát triển vùng kinh tế mới gắn với chương trình giải quyết việc làm, lập quỹ quốc gia về việc làm từ ngân sách Nhà nước và các nguồn khác, phát triển hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm. Hàng năm Chính phủ trình Quốc hội quyết định chương trình và quỹ quốc gia về việc làm.
    Uỷ Ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, lập chương trình và quỹ giải quyết việc làm của địa phương trình Hội đồng nhân dân cùng cấp quyết định. Các cơ quan Nhà nước, các tổ chức kinh tế, các đoàn thể nhân dân và tổ chức xã hội trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tham gia thực hiện các chương trình và quỹ giải quyết việc làm.
    Chính phủ có chính sách và biện pháp tổ chức dạy nghề, đào tạo lại, hướng dẫn sản xuất kinh doanh, cho vay vốn với lãi xuất thấp từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm , tạo điều kiện để người lao động tìm việc làm hoặc tự tạo việc làm, hỗ trợ về tài chính cho những địa phương ngành, có nhiều người thiếu việc làm hoặc mất việc làm do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ.
    Điều 14 Bộ luật lao động: Nhà nước định chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm và hàng năm, tạo điều kiện cần thiết, hỗ trợ tài chính, cho vay vốn hoặc giảm, miễn thuế và áp dụng các biện pháp khuyến khích khác để người có khả năng lao động tự giải quyết việc làm, để các tổ chức, các đơn vị và cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển nhiều nghề mới nhằm tạo việc làm cho người lao động.
    Nhà nước có chính sách ưu đãi về giải quyết việc làm để thu hút và sử dụng lao động là người dân tộc thiểu số.
    Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức và cá nhân trong nước và nước ngoài, bao gồm cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh để giải quyết việc làm cho người lao động.
    b. Đối với người sử dụng lao động:
    Điều 16 BLLĐ quy định: Người sử dụng lao động có quyền trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức dịch vụ việc làm để tuyển chọn lao động, có quyền tăng giảm lao động phù hợp với nhu cầu sản xuất,kinh doanh theo quy định của pháp luật.
    Điều 17 BLLĐ quy định: Trong trường hợp do thay đổi cơ cấu hoặc công nghệ mà người lao động đã làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp từ 1 năm trở lên bị mất việc làm, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm đào tạo lại họ để tiếp tục sử dụng vào những chỗ làm việc mới; nếu không thể giải quyết được chỗ làm việc mới, phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm, cứ mỗi năm làm việc trả 1 tháng lương, nhưng thấp nhất cũng bằng 2 tháng lương.Khi cần cho những người thôi việc theo khoản 1 Điều này,người sử dụng lao động phải công bố danh sách, căn cứ vào nhu cầu của doanh nghiệp và thâm niên làm việc tại doanh nghiệp, tay nghề, hoàn cảnh gia đình và những yếu tố khác của từng người để lần lượt cho thôi việc, sau khi đã trao đổi, nhất trí với Ban chấp hành công đoàn cơ sở trong doanh nghiệp theo quy định tại khoản 2 Điều 38 của BLLĐ. Việc cho thôi việc chỉ được tiến hành sau khi đã báo cho cơ quan lao động địa phương biết.
    Các doanh nghiệp phải lập quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm theo quy định của Chính phủ để kịp thời trợ cấp cho người lao động trong doanh nghiệp bị mất việc làm.
    c. Đối với người lao động.
    Điều 5 Bộ luật lao động quy định: Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề nghiệp, học nghề và nâng cao trình độ nghề nghiệp, không bị phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, thầnh phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo.
    Mọi hoạt động tạo ra việc làm,tự tạo việc làm, dạy nghề và học nghề để có việc làm, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh thu hút nhiều lao động đều được nhà nước khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hoặc giúp đỡ.
    Điều 16 khoản 1 BLLĐ quy định: Người lao động có quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động nào và ở bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm. Người tìm việc làm có quyền trực tiếp liên hệ để tìm việc tuỳ theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ của mình.
    Nội dung của điều luật trên thể hiện ở chỗ: Mọi người đều có quyền làm việc, đây là nguyên tắc đồng thời là nguyện vọng chính đáng của mỗi người. Được làm việc là nhu cầu, là đòi hỏi người lao động, vì việc làm tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho xã hội,cho bản thân mỗi người lao động, là điều kiện quan trọng nhất để đảm bảo cuộc sống của mỗi người.
    Pháp luật còn quy định: Mọi người đều có quyền tự do chọn việc làm và nghề nghiệp theo khả năng, chuyên môn và phù hợp với sức khoẻ của bản thân mình. Khi được tự do chọn việc làm mà mình có đủ khả năng và được làm theo đúng nghề nghiệp của mình thì người lao động sẽ làm việc tích cực và phát huy được hết khả năng của mình, đem lại lợi Ých và hiệu quả cho bản thân cũng như cho xã hội. Nếu người lao động làm việc không phù hợp với khả năng của mình và không đúng nghề mà mình đã có kiến thức, chuyên môn thì khi làm việc sẽ dễ dẫn đến những thiếu sót, sai lầm, hiệu quả kinh tế không cao.
    Theo quy định của pháp luật: Người cần tìm việc làm có quyền trực tiếp liên hệ để tìm việc hoặc đăng ký tại các tổ chức dịch vụ, việc làm để tìm việc theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ của mình.
    Trong thực tế, nhu cầu cần tìm việc làm luôn là vấn đề bức xúc và nóng bỏng. Hàng năm có hàng triệu người bước vào tuổi lao động và đi tìm việc cho mình. Để giải quyết vấn đề này Nhà nước phải thực sự tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt động đồng thời cùng với việc xây dựng chương trình quốc gia về giải quyết việc làm để có kế hoạch tạo thêm việc làm cho người lao động. Chính phủ đã cho phép mở các Trung tâm xúc tiến dịch vụ việc làm, theo số liệu thống kê của Bộ lao động - thương binh và xã hội tính đến tháng 7/1999 cả nước ta đã thành lập được 225 trung tâm dịch vụ việc làm trực thuộc ngành và đoàn thể, chưa kể một số cơ sở của tư nhân. Theo báo cáo của Ban quản lý chương trình quốc gia về giải quyết việc làm qua Trung tâm đạt 5,54% tạo được việc làm cho người lao động. Bởi thế,người cần tìm việc làm có quyền tự mình tìm việc, tự đến đăng ký ở các trung tâm này theo nguyện vọng, khả năng, trình độ nghề nghiệp và sức khoẻ của mình. Không thể Ðp buộc người tìm việc phải làm những việc mà họ không đủ trình độ hoặc khả năng làm việc hay sức khoẻ của bản thân mình. Nhiều công ty, cơ quan đã thấy tình trạng người lao động làm việc đạt hiệu quả thấp chỉ vì trình độ mình không phù hợp, sức khoẻ không hợp với công việc được giao. Chính những điều đó là một phần làm cho người lao động thờ ơ, không quan tâm đến công việc của mình và không chú trọng vào việc làm của mình. Trong cơ chế cũ, việc làm được coi như là sự bắt buộc, hạn chế lựa chọn và di chuyển lao động, cột chặt người lao động chủ yếu vào ruộng đất và xí nghiệp, và phân phối bình quân .Trong cơ chế thị trường, người lao động được tự do tìm việc làm theo đúng nguyện vọng, khả năng của mình. Thực tế đã chứng minh rằng nếu được làm việc theo đúng trình độ, nghề nghiệp và sức khoẻ của mình, người lao động không chỉ làm tốt công việc mà phát huy được tiềm năng, mang lại ổn định trong cơ cấu tổ chức việc làm cho Nhà nước.
    Để giải quyết nhu cầu việc làm tốt hơn, Nhà nước ta đã đưa ra những chính sách, chiến lược và phương hướng về việc làm ở nước ta, góp phần hoàn thiện xây dựng một Nhà nước “của dân, do dân và vì dân”,thực sự là một Nhà nước công bằng, dân chủ và văn minh.
    1.4 Chiến lược về việc làm ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
    Nh­ trên đã phân tích, việc làm liên quan đến sự sống còn của con người; nó là một trong những yếu tố cơ bản đảm bảo sự phát triển của xã hội. Vì vậy, việc làm thuộc phạm trù quan hệ xã hội, và do đó chính sách việc làm thuộc hệ thống chính sách xã hội nhằm giải quyết một vấn đề xã hội vừa cơ bản, lâu dài, vừa cấp bách trước mắt hiện nay ở nước ta là đảm bảo việc làm cho lao động toàn xã hội. Trước hết là cho người chưa có việc làm, người thất nghiệp và người thiếu việc làm.Có thể hiểu, chính sách việc làm là chính sách xã hội được thể chế hoá bằng luật pháp của Nhà nước, một hệ thống các quan điểm, chủ trương, phương hướng và biện pháp để giải quyết việc làm cho người lao động nhằm góp phần bảo đảm an toàn xã hội, ổn định và phát triển xã hội.
    Trước hết, bằng nhiều giải pháp, hàng năm tạo ra hàng triệu chỗ làm việc mới, tận dụng số ngày công lao động chưa dùng đến nhất là trên địa bàn nông thôn, nông nghiệp. Các thành phần kinh tế mở mang các nghành nghề, các cơ sở sản xuất dịch vụ có khả năng sử dụng người lao động, khôi phục và phát triển các làng nghề, đẩy mạnh phong trào lập nghiệp của thanh thiếu niên và việc đào tạo lao động có nghề đáp ứng nhu cầu trong nước và để xuất khẩu lao động.
    1.4.1 Khái quát chung về chiến lược việc làm ở nước ta hiện nay
    Trong những năm qua, nhờ đường lối đổi mới của Đảng, vấn đề việc làm và giải quyết việc làm cho người lao động đã được thay đổi cơ bản về nhận thức và quá trình thực hiện từ chỗ người lao động thụ động trông chờ vào việc xắp xếp việc làm của Nhà nước đã chuyển sang người lao động tích cực chủ động tự tạo việc làm cho mình và thu hút thêm lao động xã hội thông qua việc đầu tư phát triển sản xuất và dịch vụ. Nhà nước tập trung xây dựng và ban hành luật pháp, ban hành các chính sách về lao động, xây dựng các chương trình giải quyết việc làm. Nhờ vậy, toàn xã hội đã huy động được nguồn vốn đầu tư phát triển, nhất là nguồn vốn trong nước, góp phần thúc đẩy mạnh quá trình giải quyết việc làm ở nước ta.
    Bên cạnh đó, Nhà nước đã có những chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người sử dụng lao động và người lao động để tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao mức sống cho gia đình. Với những nỗ lực của Nhà nước và xã hội, từ năm 1991 đến năm 2000, số người có việc làm đã tăng từ 30,9 triệu người lên 40,6 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp liên tục giảm từ 10% vào năm 1991 xuống còn 6,5% vào năm 2000 (1). Người lao động ở nông thôn đã sử dụng tốt hơn, nhiều hơn thời gian lao động của mình. Nhờ có các chính sách đúng đắn và sự đầu tư tích cực cho các trường dạy nghề, các trung tâm dạy nghề nên tỷ lệ lao động đã qua đào tạo tăng lên đáng kể. Cơ cấu lao động đã có sự dịch chuyển tích cực theo hướng tăng lao động cho công nghiệp và dịch vụ, giảm dần lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp. Cùng với việc tạo việc làm trong nước, xuất khẩu lao động không chỉ là biện pháp tích cực tạo việc làm mà thực sự đã trở thành một nghành kinh tế đối ngoại quan trọng, mỗi năm đem lại nhiều triệu đô la cho đất nước.Có thể nói, chính sách lao động việc làm theo đường lối đổi mới của Đảng đã góp phần rất lớn trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
    Ngoài những vấn đề chung, chiến lược việc làm ở nước ta trong giai đoạn nền kinh tế thi trường hiện nay còn quy định cụ thể đối với từng loại đối tượng lao động trong xã hội.
    a. Đối với lao động nữ.
    - Để tiếp tục giải phóng tiềm năng lao động nữ trong cơ chế thị trường, vấn đề then chốt và cơ bản nhất là phải bằng mọi biện pháp làm tăng sức mạnh cạnh tranh của lao động nữ trên thị trường lao động, để lao động nữ có nhiều cơ hội trong tìm kiếm việc làm có thu nhập đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình. Bởi vậy, pháp luật đã có những quy định chủ yếu sau:
    Có chính sách đào tạo, đào tạo lại, dạy nghề và di chuyển nghề cho lao động nữ phù hợp với cơ cấu nền kinh tế đang chuyển đổi. Đây là chính sách rất quan trọng, vì trong quá trình chuyển dịch nền kinh tế, cơ cấu lao động cũng phải chuyển dịch cho phù hợp. Có như vậy cung và cầu về lao động trên thị trường mới cân đối, và tạo khả năng lớn cho lao động nữ có việc làm.
    Khuyến khích người sử dụng lao động tăng cường tuyển dụng và sử dụng lao động bằng những chính sách cụ thể, đặc biệt lĩnh vực có nhiều lao động nữ. Trong đó trước hết là chính sách tín dụng với lãi suất nâng đỡ, miễn giảm thuế trong thời gian đầu mới thành lập doanh nghiệp.
    Đảm bảo trên thực tế quyền bình đẳng của lao động nữ trong mọi quan hệ lao động thuộc mọi thành phần kinh tế, trong các hình thức tổ chức sản xuất-kinh doanh và ở các khu vực (vùng) v.v .,điều đó có nghĩa là mọi quyền lợi và nghĩa vụ của lao động nữ phải được đảm bảo như lao động nam. Xong phụ nữ phải thực hiện chức năng tái sản xuất xã hội, vì vậy mọi chi phí xã hội phát sinh khác với lao động bình thường chỉ có ở lao động nữ (thai sản, chăm sóc con nhỏ, thực hiện các biện pháp kế hoạch hoá gia đình .) phải tách ra khái chi phí sản xuất và bù đắp bằng ngân sách đầu tư cho chính sách xã hội ; có như vậy người sử dụng lao động mới quan tâm đến thu hót lao động nữ vào làm việc.
    Đối với lao động nữ, ngoài việc tạo vị thế và bảo đảm quyền bình đẳng của họ với nam giới trong quan hệ lao động, pháp luật của Nhà nước đã dựa trên những đặc điểm tâm, sinh lý, chức năng của giới nữ trong xã hội để ban hành các quy định hay chính sách ưu tiên, nhằm hạn chế các ảnh hưởng có hại đến sức khoẻ và chức năng làm mẹ của lao động nữ.
    Ngay từ khi thành lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà 02/09/1945, Đảng và Nhà nước đã không ngừng quan tâm tới việc xây dựng hiến pháp và hệ thống pháp luật. Điều đặc biệt là trong tất cả các văn bản pháp luật cao nhất đó luôn khẳng định: quyền của phụ nữ được hoàn toàn bình đẳng với nam giới trong mọi lĩnh vực kinh tế chính trị, văn hoá xã hội và gia đình, không bị bất kỳ hình thức phân biệt đối xử nào.
    Thực hiện chính sách xã hội trợ giúp cho lao động nữ gặp hoàn cảnh Ðo le, bất trắc hoặc khó khăn đặc biệt (phụ nữ goá bụa, sống cô đơn, tàn tật, nghèo .). Trong đó đặc biệt là chính sách tín dụng cho vay với lãi suất nâng đỡ để tạo việc làm hoặc xoá đói, giảm nghèo cho các hộ gia đình phụ nữ nói trên.
    Như vậy, các quy định của pháp luật lao động đã xác định rõ trách nhiệm của Nhà nước là phải tạo mọi điều kiện thuận lợi để lao động nữ được tham gia lao động và được bảo hộ quyền bình đẳng của lao động nữ. Hơn nữa lao động nữ còn được tạo điều kiện làm việc theo thời gian biểu linh hoạt, có thể làm việc không trọn ngày, không trọn tuần, giao việc tại nhà với tính chất công việc của doanh nghiệp. Nghiêm cấm người sử dụng lao động, sử dụng lao động nữ vào các công việc có tính chất độc hại,nguy hiểm và ảnh hưởng đến sức khoẻ, khả năng làm mẹ của họ.Điều này được ghi nhận trong khoản 3 Điều 111, Điều 113, Điều 115 BLLĐ. Ngoài ra, còn có danh mục công việc không được sử dụng lao động nữ , để từ đó tạo tâm lý ổn định và môi trường làm việc thuận lợi phù hợp với đặc tính tâm lý của người phụ nữ.
    Mặc dù pháp luật quy định như vậy, song các quyền lợi hợp pháp của lao động nữ không phải lúc nào cũng được thực thi một cách chính xác và công bằng. Do vậy, muốn bảo vệ được quyền lợi hợp pháp và chính đáng của mình, trước hết người lao động cần phải hiểu rõ pháp luật đã dành cho họ những quyền gì và phải thực hiện nghĩa vụ gì khi tham gia vào các quan hệ lao động. Và lúc này, Bộ luật lao động đóng vai trò là một công cụ sắc bén, là cơ sở pháp lý quan trọng nhất để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người lao động nói chung và lao động nữ nói riêng.
    Với toàn bộ Chương X BLLĐ 1994 được quy định từ Điều 109 đến điều 118 dành riêng cho lao động nữ, chúng ta thấy được sự ưu ái của Đảng, của nhà nước đối với đội ngũ lao động nữ. Nhà nước thực sự tạo điều kiện cho người lao động nữ phát huy năng lực nghề nghiệp và giúp họ kết hợp hài hoà giữa cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình.
    b. Đối với lao động chưa thành niên.
    Lao động chưa thành niên là lao động chưa phát triển đầy đủ về mặt thể lực, trí lực. Tuy nhiên, xuất phát từ nhu cầu khách quan về việc làm và giải quyết việc làm của thị trường lao động mà việc sử dụng lao động chưa thành niên là một tất yếu. Cho nên, Nhà nước một mặt thừa nhận quyền được tham gia quan hệ lao động của người chưa thành niên. Mặt khác, để đảm bảo sự phát triển bình thường về thể lực, trí lực cho họ, khi tham gia quan hệ lao động, pháp luật có những qui định nhằm bảo vệ lao động chưa thành niên.
    Điều 119 Bộ luật lao động đã qui định: “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18 tuổi. Nơi có sử dụng người lao động chưa thành niên phải lập sổ theo dõi riêng, ghi đầy đủ họ tên, ngày sinh, công việc làm, kết quả những lần kiểm tra sức khoẻ định kỳ và xuất trình khi thanh tra viên lao động yêu cầu”.
    Nghiêm cấm lạm dụng sức lao động của người chưa thành niên. Chúng ta đã thấy trong thực tế, không Ýt trẻ em mới 13, 14 tuổi đã bị lợi dụng để làm những công việc nặng nhọc. Vì mong muốn có việc làm để nuôi sống bản thân và vì hoàn cảnh điều kiện mà các em đã chấp nhận những công việc độc hại, nguy hiểm như làm việc trong các hầm mỏ,các nhà máy phân lân hoá chất, bốc vác hàng quá sức của mình. Bên cạnh đó, không Ýt người sử dụng lao động chưa thành niên này làm việc nặng nhọc, nguy hiểm để đem lại lợi nhuận bất chính và nhanh nhất cho mình. Do vậy, pháp luật phải đặt ra các nguyên tắc, quy định cụ thể và áp dụng triệt để mới tạo sự công bằng cho lao động chưa thành niên. Pháp luật quy định cấm nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, trừ một số nghề và công việc do Bé lao động - thương binh và xã hội quy định.
    Đối với ngành nghề và công việc được nhận trẻ em chưa đủ 15 tuổi vào làm việc, học nghề, tập nghề thì việc nhận và sử dụng những trẻ em này phải có sự đồng ý và theo dõi của cha mẹ hoặc người đỡ đầu. Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng người lao động chưa thành niên vào những công việc phù hợp với sức khoẻ để bảo đảm sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách và có trách nhiệm quan tâm chăm sóc người lao động chưa thành niên về các mặt lao động tiền lương, sức khoẻ, học tập trong quá trình lao động, đảm bảo thời gian làm việc của người chưa thành niên không được quá 7 giờ/ ngày.
    Người sử dụng lao động chỉ được sử dụng lao động chưa thành niên làm thêm giờ, làm việc ban đêm trong một số nghề và công việc theo quy định của pháp luật.
    c. Đối với lao động là người tàn tật.
    Người tàn tật thuộc nhóm người dễ bị tổn thương, Nhà nước phải có chính sách xã hội đặc biệt để giúp họ tự mình vươn lên trong cuộc sống, tái hoà nhập vào cộng đồng. Vì vậy việc làm cho người tàn tật cũng được pháp luật quy định rõ trong Bộ luật lao động.
    Trước hết người sử dụng lao động không được sử dụng người cao tuổi, người tàn tật làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại có ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ của họ. Nhà nước phải xây dựng chương trình tổng thể về việc làm cho người tàn tật trong Chương trình quốc gia giải quyết việc làm, nhằm giúp người tàn tật còn khả năng lao động tự mình lao động có thu nhập đảm bảo cuộc sống, kết hợp phục hồi chức năng và hoà nhập vào cộng đồng. Nghiên cứu một số lĩnh vực, dạng hoạt động hoặc mặt hàng chỉ dành riêng cho người tàn tật và cơ sở của người tàn tật độc quyền sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các doanh nghiệp (cả quốc doanh và ngoài quốc doanh) phải dành Ýt nhất 6% chỗ làm việc cho người tàn tật. Sớm ban hành một số chính sách dành riêng cho lao động là người tàn tật trên cơ sở qui định của Bộ luật lao động. Trong chiến lược việc làm đã khẳng định người tàn tật và cơ sở sản xuất của người tàn tật được Nhà nước trợ giúp từ ngân sách hàng năm để tạo việc làm, được vay vốn từ quỹ Quốc gia với lãi suất thấp, được miễn các loại thuế, được dạy nghề miễn phí nếu có nhu cầu học nghề. Doanh nghiệp nào nhận người tàn tật vào làm việc với tỷ lệ quy định thì được Nhà nước hỗ trợ hoặc cho vay vốn với lãi suất thấp, nếu không nhận thì doanh nghiệp phải đóng góp một khoản tiền tính trên cơ sở suất đầu tư cho một chỗ làm việc mới tại doanh nghiệp vào quỹ Quốc gia giải quyết việc làm, để góp phần giải quyết việc làm cho người tàn tật. ưu tiên dành các dự án nhân đạo Quốc tế trong lĩnh vực việc làm cho người tàn tật.
    Chóng ta tập trung phát triển hệ thống trung tâm dạy nghề và tổ chức việc làm cho người tàn tật, có kết hợp dạy văn hoá (kể cả chữ Brai cho người mù) phục hồi chức năng cho người tàn tật theo một cơ chế và chính sách ưu đãi đặc biệt. Phát triển các hội, hiệp hội sản xuất của người tàn tật, được Nhà nước bảo trợ và tạo điều kiện trực tiếp hợp tác với các hội tương ứng của Quốc tế trong lĩnh vực sản xuất và tạo việc làm cho người tàn tật. Pháp luật quy định không sử dụng người tàn tật làm đêm, làm thêm giờ khi họ bị suy giảm khả năng lao động đến một mức độ nhất định.
    1.4.2. Một số nội dung của chiến lược việc làm ở nước ta trong giai đoạn từ 2001 - 2005
    Chóng ta đã biết hiện trạng kinh tế xã hội của đất nước ta cùng với bối cảnh quốc tế tạo nhiều cơ hội và điều kiện thuận lợi đan xen với những thách thức và khó khăn cho sự phát triển của đất nước trong thập kỷ tới. Vì vậy, ngay từ bây giờ Đảng và Nhà nước đã có những phương hướng phù hợp, cụ thể để giải quyết vấn đề việc làm nhằm đưa đất nước ngày một phát triển.
    Nước ta có một chế độ chính trị vững vàng, tạo nền tảng và môi trường thuận lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó thế và lực của nước ta đã được nâng cao hơn trước cùng với khả năng khai thác các nguồn lực từ lao động, đất đai để tạo điều kiện cho việc phát triển kinh tế và tạo việc làm cho người lao động.
    Ngoài những thuận lợi trên, nước ta còn gặp không Ýt khó khăn. Những năm đầu của thế kỷ 20 nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển, tốc độ tăng trưởng GDP trong mấy năm cuối của thể kỷ 20 có xu hướng chậm lại, tụt hậu xa hơn là một thách thức và nghiêm trọng khi các cam kết đa phương và song phương trong hội nhập không còn xa. Trải qua 15 năm đổi mới nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa đã hình thành trên đại thể song còn rất sơ khai, thiếu đồng bộ, không thống nhất do những nguyên nhân như: nhận thức chưa chuyển kịp với xu thế chung trên thế giới và khu vực, do thãi quen của cách làm ăn cũ còn in sâu và đụng chạm đến lợi Ých cục bộ cá nhân, do khuyết điểm, nhược điểm của bộ máy lãnh đạo và quản lý đất nước. Nhận rõ được những thuận lợi và khó khăn đó nên Nhà nước đã định hướng chính sách phát triển nguồn nhân lực: tăng trưởng kinh tế phải gắn với thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội,giữ gìn và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh. Phát triển xã hội công bằng vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm nâng cao dân trí, giải quyết việc làm là yếu tố cơ bản để bảo đảm công bằng xã hội. Nhà nước đưa ra định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Những nội dung cơ bản của chiến lược việc làm trong thời gian tới là:
    - Mục tiêu kế hoạch việc làm thời kỳ 2001 - 2005:
    Mỗi năm tạo thêm 1,3 - 1,4 triệu việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị xuống 5% và nâng tỷ lệ sử dụng thời gian lao động ở nông thôn lên 80% vào năm 2005.
    Để đạt được mục tiêu trên, trong 5 năm tới cần phấn đấu đạt được các chỉ tiêu sau:
    Thứ nhất, tập trung phát triển kinh tế - xã hội duy trì tỷ lệ tăng GDP hàng năm không dươi 7% để tạo ra 5,0 - 5,5 triệu chỗ việc làm mới.
    Thứ hai, chuyển dịch cơ cấu lao động xã hội theo hướng giảm dần tỷ lệ trong lao động xuống 55%, công nghiệp và xây dựng 21%, dịch vụ 27% vào năm 2005.
    Thứ ba, đào tạo và đào tạo lại nghề cho 5 - 5,5 triệu người, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo trong lực lượng lao động lên 30% vào năm 2005.
     
Đang tải...