Luận Văn Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Thương Mại' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 16/4/14.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI MỞ ĐẦU
    Ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức gia nhập vào tổ ch ức
    thương mại thế giới WTO sau 8 năm đàm phán. Để chuẩn bị tham gia và chấp
    nhận những luật lệ chung cho hầu hết các nước trên th ế gi ới, lu ật pháp Vi ệt
    Nam đã có những thay đổi căn bản nhằm làm thu hẹp khoảng cách giữa luật
    Việt Nam và luật quốc tế, tạo sân chơi bình đẳng cho t ất c ả các bên tham gia
    vào hoạt động thương mại tại Việt Nam. Đáp ứng các yêu cầu đó, năm 2005,
    Quốc hội Việt Nam đã thông qua nhiều đạo luật mới trong đó có bao gồm B ộ
    luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 thay thế cho Bộ luật dân s ự và
    Luật thương mại cũ đồng thời chấm dứt hiệu lực của Pháp lệnh hợp đồng
    kinh tế. Đây là một thay đổi lớn đối với toàn bộ hệ thống pháp lu ật nói chung
    và pháp luật về hợp đồng nói riêng.
    Hợp đồng mua bán hàng hóa là quan hệ trao đổi hợp pháp mà h ầu h ết
    các cá nhân tổ chức kinh doanh đều phải thực hiện trong quá trình tồn tại và
    phát triển. Việc kí kết, thực hiện hợp đồng phải tuân theo đúng các quy đ ịnh
    của pháp luật mới có thể giúp gắn chặt mối quan hệ hợp tác, bảo vệ quyền
    và lợi ích hợp pháp của các bên, đồng thời góp phần tăng cường hi ệu qu ả
    quản lý kinh tế của nhà nước trong nền kinh tế.
    Với sự ra đời của các đạo luật nêu trên, quy định về pháp luật hợp đồng
    hiện nay đã khá đầy đủ và có hệ thống. Tuy nhiên vi ệc áp d ụng các chính
    sách mới trong việc kí kết và thực hiện hợp đồng vẫn đang có nhi ều v ấn đ ề
    cần bàn luận. Bài viết “Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa ở
    Việt Nam và thực tiễn áp dụng tại Công ty cổ phần kỹ thu ật n ền móng và
    công trình ngầm FECON” dưới đây trình bày một cách khái quát về tình hình
    áp dụng pháp luật trong việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa ở Công ty
    cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON. Bài vi ết này bao
    gồm ba phần chính:
    Chương I: Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa
    Chương II: Thực tiễn áp dụng chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán
    hàng hóa tại Công ty cổ phần kỹ thuật nền móng và công trình ngầm FECON
    Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện việc ký kết và thực hiện
    hợp đồng mua bán hàng hóa tại Công ty cổ phần k ỹ thu ật n ền móng và công
    trình ngầm FECON
    CHƯƠNG I: CHẾ ĐỘ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG
    MUA BÁN HÀNG HÓA

    I. Khái quát chung về hợp đồng
    1. Khái niệm
    Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay
    đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. (Điều 388 Bộ luật dân sự 2005).
    Để quan hệ hợp đồng được xác lập một cách có hiệu lực, cần tồn tại
    các điều kiện sau:
    - Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
    - Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
    luật, không trái đạo đức xã hội;
    - Các bên tham gia ký kết hợp đồng phải hoàn toàn tự nguyện.
    - Trong trường hợp pháp luật có quy định về hình thức giao dịch thì
    phải tuân theo đúng hình thức đã quy định đó.
    (Điều 122 Bộ luật dân sự 2005)
    2. Nội dung của hợp đồng
    Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các điều khoản mà các ch ủ th ể
    tham gia giao kết hợp đồng đã thỏa thuận. Các điều khoản đó xác đ ịnh nh ững
    quyền và nghĩa cụ dân sự cụ thể của các bên trong hợp đồng.
    Điều 402 Bộ luật dân sự quy định:
    “Tùy theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thỏa thuận về nh ững nội
    dung sau đây:
    1.Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm
    hoặc không được làm;
    2.Số lượng, chất lượng;
    3.Giá, phương thức thanh toán;
    4.Thời hạn, địa điểm, phương thức thực hiện hợp đồng;
    5.Quyền, nghĩa vụ của các bên;
    6.Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng;
    7.Phạt vi phạm hợp đồng;
    8.Các nội dung khác.”
    Trong tất cả các điều khoản nói trên, có những điều khoản mà ở h ợp
    đồng này các bên không cần thỏa thuận nhưung ở một h ợp đồng khác, các
    bên lại buộc phải thỏa thuận thì hợp đồng mới đ ược coi là giao k ết. M ặt
    khác, ngoài những nội dung cụ thể này, các bên còn có th ể thỏa thu ận đ ể xác
    định với nhau thêm một số nội dung khác. Vì vậy, có thể phân chia các điều
    khoản trong nội dung của hợp đồng thành ba loại:
    2.1. Điều khoản cơ bản
    Các điều khoản cơ bản xác định nội dung chủ yếu của h ợp đồng. Đó là
    những điều khoản không thể thiếu được đối với từng loại h ợp đ ồng. N ếu
    không thỏa thuận được những điều khoản đó, thì hợp đồng không th ể giao
    kết được. Điều khoản cơ bản có thể do tính chất của từng hợp đồng quy ết
    định hoặc do pháp luật quy định. Tùy theo từng loại h ợp đ ồng mà đi ều kho ản
    cơ bản có thể là đối tượng, giá cả, địa điểm có những điều khoản đương
    nhiên là điều khoản cơ bản, vì không thỏa thuận t ới nó s ẽ không th ể hình
    thành hợp đồng. Chẳng hạn, điều khoản về đối tượng luôn là đi ều kho ản c ơ
    bản trong hợp đồng mua bán tài sản. Ngoài ra, có những điều khoản mà vốn
    dĩ không phải là điều khoản cơ bản nhưng các bên th ấy c ần ph ải th ỏa thu ận
    được điều khoản đó mới giao kết hợp đồng thì những điều khoản này cũng là
    điều khoản cơ bản của hợp đồng sẽ giao kết.
    2.2. Điều khoản thông thường
    Là những điều khoản được pháp luật quy định trước. Nếu khi giao kết
    hợp đồng, các bên không thỏa thuận những điều khoản này, thì vẫn coi như
    hai bên đã mặc nhiên thỏa thuận và được thực hiện như pháp luật đã đ ịnh.
    Khác với điều khoản cơ bản, các điều khoản thông th ường không làm ảnh
    hưởng tới quá trình giao kết hợp đồng, các bên có thể không cần thỏa thuận
    và không cần ghi vào văn bản hợp đồng những điều khoản mà pháp luật đã
    quy định nhưng các bên vẫn phải thực hiện các điều khoản đó. Vì vậy, nếu
    có tranh chấp về những nội dung này, thì quy định của pháp lu ật s ẽ là căn c ứ
    để xác định quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng. Ví dụ: Đ ịa đi ểm
    giao tài sản là động sản (đối tượng của hợp đồng mua bán) là tại nơi cư trú
    của người mua (nếu trong hợp đồng, các bên không thỏa thuận về địa điểm
    giao tài sản).
    2.3. Điều khoản tùy nghi
    Ngoài những điều khoản phải thỏa thuận vì tính chất của h ợp đồng và
    những điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao k ết h ợp đ ồng các
    bên còn có thể thỏa thuận để xác định thêm một số tài kho ản khác nh ằm làm
    cho nội dung của hợp đồng được cụ thể hoặc tạo điều kiện thuận lợi cho các
    bên trong quá trình thực hiện hợp đồng. Các điều khoản này đ ược g ọi là đi ều
    khoản tùy nghi.
    Điều khoản tùy nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao k ết
    hợp đồng tự ý lựa chọn và thỏa thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa
    vụ dân sự của các bên. Thông qua điều khoản tùy nghi, bên có nghĩa v ụ đ ược
    phép lựa chọn một trong những cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng,
    sao cho thuận lợi mà vẫn bảo đảm được quyền yêu cầu của bên kia.
    Như vậy, một điều khoản trong nội dung của hợp đồng có thể là điều
    khoản cơ bản, có thể là điều khoản thông thường nh ưng cũng có th ể là đi ều
    khoản tùy nghi. Chẳng hạn, địa điểm giao vật trong hợp đồng mua bán tài sản
    sẽ là điều khoản cơ bản, nếu lúc giao kết, các bên đã thỏa thuận cụ thể về
    nơi giao vật. Ngược lại, nó là điều khoản thông thường nếu các bên không
    thỏa thuận mà mặc nhiên thừa nhận và thực hiện theo quy định của pháp luật.
    Mặt khác, địa điểm trong hợp đồng mua bán sẽ là điều khoản tùy nghi nếu
    các bên đã thỏa thuận cho phép bên có nghĩa v ụ được l ựa ch ọn m ột trong
    nhiều nơi để thực hiện nghĩa vụ giao vật.
    Dựa vào tính chất của các điều khoản tùy nghi, người ta còn có th ể
    phân chúng thành hai loại khác nhau: tùy nghi ngoài pháp luật và tùy nghi khác
    pháp luật.
    II. Chế độ pháp lý về hợp đồng mua bán hàng hóa
    1. Khái niệm
    Hàng hóa theo nghĩa rộng được hiểu là sản phẩm lao động của con
    người, được tạo ra nhằm mục đích trao đổi để thỏa mãn những nhu cầu mang
    tính xã hội. Nhu cầu của con người phong phú và biến thiên liên t ục vì v ậy
    hàng hóa cũng luôn phát triển phong phú và đa d ạng. D ựa vào đ ặc tr ưng t ừng
    loại mà hàng hóa được phân thành bất động sản (bao g ồm: đ ất đai; nhà, công
    trình xây dựng gắn liền với đất đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công
    trình xây dựng đó; các tài sản khác gắn liền với đất đai) và động s ản (là
    những tài sản không phải là bất động sản) hay phân thành tài s ản h ữu hình và
    tài sản vô hình(quyền tài sản). Hàng hóa có thể là vật, là lao động c ủa con
    người, là các quyền tài sản mang tính vô hình. Luật th ương mại 2005 quy
    định, hàng hóa bao gồm: a) Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình
    thành trong tương lai; b) Những vật gắn liền với đất đai. Khái ni ệm này đã
    được mở rộng so với quy định trong Luật thương mại 1997, và đã bao gồm
    hầu hết các đối tượng thực tế được mua bán trên thị trường.
    Mua bán hàng hoá là hoạt động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa
    vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán;
    bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quy ền s ở h ữu hàng
    hoá theo thỏa thuận(Khoản 8 điều 3 Luật Thương mại 2005).
    Pháp luật hợp đồng, đặc biệt là pháp luật về h ợp đồng mua bán hàng
    hóa là bộ phận quan trọng của pháp luật thương mại ở bất kỳ quốc gia nào.
    Trước khi có Bộ luật dân sự 2005 và Luật thương mại 2005 ra đ ời, pháp lu ật
    về hợp đồng của Việt Nam nằm rải rác trong rất nhiều văn b ản pháp lu ật có
    giá trị pháp lý cao thấp khác nhau, thiếu tính hệ th ống. Năm 2005 v ới s ự ra
    đời của Bộ luật dân sự, Luật thương mại cùng một số văn b ản pháp lu ật
    quan trọng khác đã tạo được sự thống nhất trong pháp luật h ợp đồng, gi ải
    quyết các vấn đề chồng chéo giữa các văn bản pháp lu ật, c ụ th ể là: Các ho ạt
    động có tính chất thương mại, nếu được quy định tại một luật riêng thì sẽ
    được điều chỉnh bởi luật đó; Các hoạt động không được quy định trong luật
    riêng khác thì sẽ được điều chỉnh bởi Bộ luật dân sự. (Điều 4 Luật th ương
    mại 2005)
    Để hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực, người tham gia giao k ết
    hợp đồng phải là đại diện hợp pháp của các bên liên quan. Đại di ện h ợp pháp
    có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quy ền (b ằng văn
    bản), được quy định chi tiết trong Bộ luật dân sự 2005, điều 139 - 148 và
    trong các văn bản liên quan đến từng loại chủ thể kinh doanh. Luật th ương
    mại 1997 quy định chủ thể của quan hệ mua bán hàng hóa ph ải là th ương
    nhân hoặc có một bên là thương nhân. Điều luật này đã được bỏ vì nó trái với
    khái niệm hoạt động thương mại và mua bán hàng hóa c ủa Lu ật th ương m ại
    2005.
    2. Ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa
    2.1. Nguyên tắc ký kết hợp đồng
    Khi xác lập một quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên tham gia
    phải tuân theo những nguyên tắc nhất định. (Điều 389 Bộ luật dân sự 2005,
    điều 10, điều 11 Luật thương mại 2005)
    Thứ nhất là nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật: Th ương nhân thu ộc
    mọi thành phần kinh tế bình đẳng trước pháp luật trong hoạt đ ộng th ương
    mại. Trong quá trình xác lập quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa, các bên
    tham gia đều bình đẳng, không được lấy bất cứ một lý do nào về sự khác biệt
    để đối xử không bình đẳng. Các chủ thể bình đẳng về năng l ực pháp lu ật,
    bình đẳng giữa các hình thức sở hữu. Sự bình đẳng được thể hiện ở các
    điểm:
    - Bình đẳng trong việc tham gia vào quan hệ hợp đồng không ph ụ thuộc
    vào giới tính và các địa vị xã hội khác;
    - Bình đẳng về quyền và nghĩa vụ khi hợp đồng đ ược xác l ập. Các bên
    phải thực hiện nghĩa vụ đối với những người có quyền;
    - Bình đẳng về trách nhiệm dân sự nếu bên có nghĩa vụ không thực
    hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ đều phải chịu trách nhiệm tài sản đối
    với bên có quyền.
    Thứ hai là nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận: Các bên tham gia có
    quyền tự do thỏa thuận không trái với các quy định của pháp luật, thuần
    phong mỹ tục và đạo đức xã hội để xác lập các quyền và nghĩa vụ của các
    bên trong hoạt động thương mại; các bên hoàn toàn tự nguy ện, không bên nào
    được thực hiện hành vi áp đặt, cưỡng ép, đe dọa, ngăn cản bên nào. M ọi cam
    kết, thỏa thuận không có sự tự nguyện của các bên có thể bị coi là vô hiệu.
    2.2. Hình thức hợp đồng
    Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn b ản
    hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Việc lựa ch ọn hình th ức giao k ết
    hợp đồng là do các bên giao kết hợp đồng tự lựa ch ọn trừ trường h ợp đối v ới
    các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy đ ịnh ph ải đ ược l ập
    thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó (Điều 24 Luật th ương m ại
    2005).
    2.3. Thủ tục ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa
    2.3.1. Đề nghị giao kết hợp đồng:
    * Khái niệm: Ðề nghị giao kết hợp đồng là s ự bày tỏ ý chí c ủa m ột
    người về việc mong muốn giao kết hợp đồng với một người khác trên một
    đối tượng và trong những điều kiện đã được người đề nghị xác định rõ. Ðề
    nghị được gửi đến một người đối tác xác định cụ thể.
    * Hình thức đề nghị: Luật Việt Nam hiện hành không có quy đ ịnh riêng
    về hình thức đề nghị. Vậy, việc đề nghị tuân thủ các quy đ ịnh chung v ề hình
    thức giao dịch: đề nghị có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
    bằng hành vi cụ thể. Ngay cả trong trường hợp h ợp đồng ph ải đ ược giao k ết
    theo một hình thức nhất định, thì đề nghị giao kết cũng có th ể đ ược ghi nh ận
    dưới hình thức khác
    * Tính chất của đề nghị giao kết hợp đồng: Ðề nghị giao kết h ợp đ ồng
    sẽ trở thành hợp đồng một khi người được đề nghị chấp nhận giao kết theo
    các điều kiện được đưa ra trong đề nghị đó. Bởi vậy:
    - Ðề nghị giao kết hợp đồng phải chắc chắn, nghĩa là phải th ể hiện ý
    chí dứt khoát của người đề nghị: hợp đồng sẽ phải được người đề ngh ị giao
    kết nếu lời đề nghị được chấp nhận. Không có tính chất này, thì cái g ọi là đ ề
    nghị giao kết hợp đồng thực ra chỉ là một lời mời thương lượng
    - Ðề nghị giao kết hợp đồng phải rõ ràng và đầy đủ, nghĩa là ph ải ghi
    nhận tất cả các nội dung chủ yếu của hợp đồng để hợp đồng có th ể được
    giao kết chỉ trên cơ sở tuyên bố chấp nhận giao kết của ng ười đ ược đ ề ngh ị.

    * Hiệu lực của đề nghị giao kết trong thời gian chưa có sự chấp nhận
    đề nghị: Chừng nào đề nghị giao kết hợp đồng chưa được chấp nhận, thì h ợp
    đồng chưa được giao kết. Tuy nhiên, theo Bộ luật dân sự 2005 - Ðiều 390, khi
    một bên đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ nội dung ch ủ y ếu của hợp đồng
    và thời hạn trả lời, thì không được mời người thứ ba giao k ết trong th ời h ạn
    chờ trả lời và phải chịu trách nhiệm về lời đề nghị của mình.
    Trường hợp người được đề nghị chấp nhận giao kết hợp đồng, nhưng
    có nêu điều kiện hoặc sửa đổi đề nghị, thì coi như người này đã đưa ra đề
    nghị mới (Bộ luật dân sự 2005 Ðiều 395). Ðiều đó có nghĩa rằng đ ề ngh ị
    được đưa ra trước không còn hiệu lực.
    2.3.2. Chấp nhận đề nghị
    * Khái niệm: Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của
    bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung
    của đề nghị.
    * Sự im lặng: Sự im lặng cũng được coi là chấp nh ận đ ề ngh ị giao k ết
    hợp đồng, khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận đề nghị v ẫn im l ặng, n ếu có
    thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp thuận (Bộ luật dân sự 2005 Ðiều 404
    khoản 2). Cần lưu ý câu chữ của luật: nếu có thỏa thuận Một người gửi
    một đề nghị cho người khác và ghi rõ trong đề nghị rằng nếu ng ười nh ận đ ề
    nghị im lặng, thì hết thời hạn trả lời, người này coi như chấp nhận giao kết
    hợp đồng. Ðiều kiện đó hoàn toàn vô nghĩa nếu người nhận được đề ngh ị,
    trong thời hạn trả lời, không xác nhận với người đề ngh ị v ề vi ệc ch ấp nh ận
    điều kiện. Một người nhận được một đề nghị có ghi rõ thời hạn trả lời và
    báo cho người đề nghị biết rằng nếu hết thời hạn đó mà người nh ận đ ề ngh ị
    vẫn im lặng, thì coi như người này chấp nhận đề nghị: trong trường h ợp này,
    sự im lặng trở thành hình thức diễn đạt sự chấp nhận đề nghị giao kết h ợp
    đồng, theo sự thỏa thuận giữa hai bên liên quan.
    * Hệ quả của việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng: Việc ch ấp
    nhận đề nghị giao kết hợp đồng, cũng như việc đề nghị, không ràng bu ộc
    người bày tỏ ý chí chừng nào ý chí được bày tỏ chưa được thông tin cho
    người đối tác: người chấp nhận đề nghị có quyền rút lại lời ch ấp nhận trong
    trường hợp người đề nghị chưa nhận được lời chấp nhận. Nhưng, khác với
    đề nghị, chấp nhận đề nghị, một khi đã được người đề nghị tiếp nhận, sẽ
    không thể được rút lại hay thay đổi theo ý chí đơn phương của người chấp
    nhận đề nghị, trừ trường hợp chấp nhận đề nghị được gửi trễ h ạn và trở
    thành một đề nghị mới (Ðiều 397 khoản 1).
    Sự chấp nhận đề nghị, được thông tin cho người đề nghị trong thời h ạn
    trả lời có tác dụng thiết lập sự ưng thuận của các bên về việc xác lập h ợp
    đồng.
    2.4. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa
    Luật thương mại 1997 quy định “Hợp đồng mua bán hàng hoá phải có
    các nội dung chủ yếu sau đây:
    - Tên hàng;
    - Số lượng;
    - Quy cách, chất lượng;
    - Giá cả;
    - Phương thức thanh toán;
    - Địa điểm và thời hạn giao nhận hàng.
    Ngoài các nội dung chủ yếu quy định tại Điều này, các bên có th ể tho ả
    thuận các nội dung khác trong hợp đồng.”
    Luật thương mại 2005 đã bỏ quy định này do không cần thiết phải bắt
    buộc các bên phải thỏa thuận những nội dung nhất định. Hơn nữa, quy định
    này có thể gây ra nhiều hợp đồng vô hiệu ngoài mong muốn của các bên.
    Điều này cũng cho thấy Luật thương mại 2005 đã th ực hiện nguyên t ắc tự
    do, tự nguyện thỏa thuận trong hoạt động thương mại. Quy ền t ự do giao k ết
    và thỏa thuận hợp đồng được pháp luật Việt Nam ghi nh ận t ại đi ều 57 Hi ến
    pháp 1992, điều 4, điều 388 Bộ luật dân sự 2005. Nh ư vậy, không những
    được tự do lựa chọn bạn hàng, các chủ thể kinh doanh còn được tự do thỏa
    thuận những nội dung trong hợp đồng phù hợp với quy định của pháp luật,
    được thỏa thuận tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Tùy thuộc vào
    từng loại hàng hóa, quy mô của quan hệ mua bán cũng như các điều kiện khác
    mà các bên thỏa thuận chi tiết những quyền và nghĩa vụ của mình trong h ợp
    đồng cụ thể. Các quy định của pháp luật thương mại liên quan đ ến h ợp đ ồng
    mua bán hàng hóa chỉ có chức năng xác định những chuẩn mực chung nh ất
    trong quan hệ giữa người mua, người bán và các bên liên quan, dựa vào đó các
    bên cụ thể hóa quyền và nghĩa vụ của mình. Trong trường h ợp không có th ỏa
    thuận, cơ quan tài phán có thể dựa vào đó mà xác đ ịnh quy ền và nghĩa v ụ cho
    các bên.
    Tuy vậy, để Hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu lực thì m ục đích và
    nội dung các thỏa thuận trong Hợp đồng không được trái pháp lu ật và đ ạo
    đức xã hội. Ví dụ: hàng hóa mà các bên mua bán không ph ải là hàng c ấm kinh
    doanh theo quy định của pháp luật Việt Nam. Danh mục hàng hóa cấm kinh
    doanh hiện nay được quy định trong Nghị định 11/1999/NĐ-CP ngày
    03/3/1999 của Chính phủ.
    III. Chế độ thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
    1. Các nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
    Sau khi được giao kết hợp pháp, hợp đồng mua bán hàng hóa có hiệu
    lực bắt buộc đối với các bên (Điều 4 Bộ luật dân sự 2005). Hợp đ ồng khi đó
    trở thành “luật”, các bên phải tự nguyện thực hiện các nghĩa vụ đã th ỏa
    thuận, nếu không tự nguyện thực hiện thì có th ể bị cưỡng ch ế th ực hiện theo
    quy định của pháp luật (Điều 7 Bộ luật dân sự 2005).
    Trong quá trình thực hiện Hợp đông mua bán hàng hóa, các bên ph ải
    tuân thủ những nguyên tắc sau:
    * Thực hiện hợp đồng một các trung thực, theo tinh thần hợp tác và có
    lợi nhất cho các bên, đảm bảo tin cậy lẫn nhau.
    Tham gia hợp đồng là tự nguyện ràng buộc vào các nghĩa v ụ. Các nghĩa
    vụ càng phức tạp và mang tính tổng thể thì cách thỏa thuận càng chi tiết
    nhằm dự liệu việc điều chỉnh các tình huống có thể xảy ra. Song dù có thỏa
    thuận chi tiết đến đâu, vào thời điểm ký kết, người soạn th ảo h ợp đồng cũng
    không thể lường trước được tất cả những tình huống có thể xảy ra, ảnh
    hưởng đến quá trình thực hiện hợp đồng sau này. Do v ậy, đ ể vi ệc th ực hi ện
    hợp đồng diễn ra phù hợp với lợi ích của các bên đối tác, các bên cần có nghĩa
    vụ thông báo cho nhau những thông tin liên quan, hợp tác ch ặt ch ẽ, th ương
    lượng, hòa giải tìm các biện pháp thỏa đáng đế giải quy ết nh ững vấn đ ề m ới
    xuất hiện (ví dụ điều chỉnh lại thời điểm giao hàng, điều ch ỉnh l ại giá, x ử lý
    hàng kém phẩm chất ).
    * Thực hiện hợp đồng đúng đối tượng, chất lượng, số lượng, chủng
    loại, thời hạn, phương thức và các thỏa thuận khác.
    Hợp đồng sau khi được giao kết hợp pháp thì phải được thực hiện.
    Người bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho người
    mua và nhận tiền, người mua có nghĩa vụ trả tiền cho người bán và nh ận
    hàng theo thỏa thuận. Các nghĩa vụ này phải được thực hiện đúng và đầy đủ.
    * Không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công c ộng,
    quyền và lợi ích hợp pháp của người khác (Điều 412 Bộ luật dân sự 2005).
    Các bên không những có nghĩa vụ thực hiện đúng và đầy đủ các th ỏa
    thuận trong Hợp đồng mua bán hàng hóa, mà khi thực hiện các nghĩa vụ đó
    không được xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
    lợi ích hợp pháp của các bên thứ ba. Trong mua bán hàng hóa, nguyên t ắc này
    được thể hiện ở chỗ, bên bán có nghĩa vụ đảm bảo quyền sở h ữu của bên
    mua đối với hàng hóa đã bán không bị tranh chấp bởi bên th ứ ba; Hàng hóa đó
    phải hợp pháp; Việc chuyển giao hàng hoá là hợp pháp (Điều 45 Luật th ương
    mại 2005).
    2. Quá trình thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
    2.1. Nghĩa vụ giao hàng của người bán
    Bên bán phải giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong h ợp đ ồng v ề s ố
    lượng, chất lượng, cách thức đóng gói, bảo quản và các quy định khác trong
    hợp đồng (Điều 24 Luật thương mại 2005). Nói một cách khái quát nhất,
    nghĩa vụ giao hàng của người bán được thực hiện, nếu người bán đã th ực
    hiện tất cả các hành vi cần thiết để hàng hóa được chuyển sang cho người
    mua tự do định đoạt.
    2.1.1 Giao đúng loại hàng:
    Người bán không được giao các loại hàng khác hoặc thực hiện các
    nghĩa vụ khác thay thế các loại hàng đã th ỏa thu ận, n ếu bên mua không ch ấp
    nhận. Để tránh tranh chấp về loại hàng, điều khoản tên hàng trong H ợp đ ồng
    mua bán hàng hóa cần được soạn thảo chi tiết: Tên hàng th ường đ ược ghi
    bằng một danh từ thông dụng và rõ nghĩa nhất, nếu có nguy c ơ danh t ừ đó có
    thể hiểu theo nhiều nghĩa không đồng nhất, thì kèm theo tên hàng c ần ghi
    thêm tên khoa học, công dụng, chức năng và mục đích sử dụng, nơi s ản xu ất,
    nguồn gốc, nhãn hiệu của hàng hóa. Nếu hàng hóa được giao không đúng
    chủng loại, không phù hợp với hợp đồng, h ầu quả pháp lý đ ược quy đ ịnh t ại
    Điều 68 Luật thương mại 1997, điều luật này (đáng ra là một quy đ ịnh c ụ
    thể, phù hợp với những đặc thù của quan h ệ mua bán th ương m ại) l ại chung
    chung hơn cả Điều 430 của Bộ luật dân sự 1995. Bất cập này đã được sửa
    chữa bằng Điều 40 Luật thương mại 2005. Theo quy định đó, khi hàng hóa
    được giao không đúng chủng loại: “Trừ trường hợp các bên có tho ả thu ận
    khác, trách nhiệm đối với hàng hóa không phù hợp với hợp đồng được quy
    định như sau:
    - Bên bán không chịu trách nhiệm về bất kỳ khiếm khuy ết nào của hàng
    hoá nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng bên mua đã bi ết hoặc ph ải bi ết v ề
    những khiếm khuyết đó;
    - Trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, trong thời hạn khiếu
    nại theo quy định của Luật này, bên bán phải chịu trách nhiệm về bất kỳ
    khiếm khuyết nào của hàng hoá đã có trước th ời đi ểm chuy ển r ủi ro cho bên
    mua, kể cả trường hợp khiếm khuyết đó được phát hiện sau thời đi ểm
    chuyển rủi ro;
    - Bên bán phải chịu trách nhiệm về khiếm khuyết của hàng hóa phát
    sinh sau thời điểm chuyển rủi ro nếu khiếm khuyết đó do bên bán vi ph ạm
    hợp đồng.”
    Giao hàng đúng số lượng: Tùy theo đặc điểm của hàng hóa, các bên
    thỏa thuận cụ thể số lượng, đơn vị đo lường, cách thức đo lường (ví dụ trọng
    lượng tịnh, trọng lượng cả bì), mức độ dung sai, mức độ hao hụt tự nhiên.
    Hậu quả pháp lý của việc giao hàng thừa hoặc giao hàng thi ếu đ ược quy đ ịnh
    tại Điều 41, 43 Luật thương mại 2005: “Trường hợp bên bán giao thừa hàng
    thì bên mua có quyền từ chối hoặc chấp nhận số hàng thừa đó; Trường h ợp
    bên mua chấp nhận số hàng thừa thì phải thanh toán theo giá tho ả thu ận trong
    hợp đồng nếu các bên không có thoả thuận khác.”
    2.1.2. Giao hàng đúng địa điểm:
    Việc giao hàng có thể được tiến hành tại cửa hàng, tại nơi sản xuất, tại
    trụ sở của người bán, tại trụ sở của người mua hay một địa đi ểm b ất kỳ nào
    mà các bên thỏa thuận. “Trường hợp không có thoả thuận về địa điểm giao
    hàng thì địa điểm giao hàng được xác định như sau:
    a) Trường hợp hàng hoá là vật gắn liền với đất đai thì bên bán phải giao
    hàng tại nơi có hàng hoá đó;
    b) Trường hợp trong hợp đồng có quy định về vận chuyển hàng hoá thì
    bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho người vận chuyển đầu tiên;
    c) Trường hợp trong hợp đồng không có quy định về vận chuyển hàng
    hoá, nếu vào thời điểm giao kết hợp đồng, các bên biết được địa điểm kho
    chứa hàng, địa điểm xếp hàng hoặc nơi sản xuất, chế tạo hàng hoá thì bên
    bán phải giao hàng tại địa điểm đó;
    d) Trong các trường hợp khác, bên bán phải giao hàng t ại đ ịa đi ểm kinh
    doanh của bên bán, nếu không có địa điểm kinh doanh thì phải giao hàng tại
    nơi cư trú của bên bán được xác định tại thời điểm giao kết h ợp đồng mua
    bán.” (Điều 35 Luật thương mại 2005)
    Điều luật này đã xóa bỏ phần nào sự cứng nhắc của Luật thương mại
    1997 quy định nếu không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng thì hợp đồng
    được coi như là chưa giao kết.
    2.1.3. Giao hàng đúng thời hạn:
    Tương tự như vậy thời hạn giao hàng theo quy định của Luật th ương
    mại 1997 cũng thuộc những nội dung chủ yếu của Hợp đồng mua bán hàng
    hóa, mà nếu thiếu thỏa thuận về nó trong hợp đồng s ẽ được coi nh ư là ch ưa
    giao kết, Điều 50 Luật thương mại 1997. Luật thương mại 2005 quy đ ịnh
    trường hợp không có thỏa thuận về thời hạn giao hàng thì bên bán phải giao
    hàng trong một thời hạn hợp lý sau khi giao kết h ợp đ ồng(Đi ều 37). Tùy theo
    từng loại hàng, các bên có thể thỏa thuận hàng được giao toàn bộ hoặc từng
    phần theo lịch trình nhất định.
    Nếu người bán hàng giao hàng sau thời hạn thỏa thuận, tùy vào từng
    loại hàng khác nhau mà hậu quả pháp lý cũng khác nhau. N ếu hàng hóa đ ược
    dùng cho một thời điểm nhất định mà sau th ời điểm đó trở nên không c ần
    thiết nữa (ví dụ bánh kẹo, đồ chơi phục vụ trực tiếp cho trẻ em dịp Tết
    Trung Thu, hàng hóa đặc biệt phục vụ cho lễ Noel, cho Tết Nguyên Đán); bên
    mua có quyền từ chối tiếp nhận hàng giao chậm và yêu c ầu bồi th ường thi ệt
    hại. Trong những trường hợp khác, bên mua thường gia h ạn hợp lý đ ể bên
    bán có thể thực hiện được nghĩa vụ giao hàng và yêu cầu bên bán đền bù thiệt
    hại hoặc trả phạt hợp đồng theo quy định liên quan đến trách nhi ệm v ật ch ất
    khi vi phạm hợp đồng.
    2.1.4. Giao hàng đúng phương thức:
    Tùy theo tính chất, quy mô và các điều kiện cụ th ể mà các bên th ỏa
    thuận cụ thể về phương thức giao hàng. Hàng có th ể được giao trực ti ếp cho
    người mua tại trụ sở, nơi bán hoặc nơi sản xuất của người bán, được giao
    cho người vận chuyển là chủ phương tiện vận chuyển như đường s ắt,
    đường thủy, đường bộ, đường hàng không. Phương thức giao hàng (bằng
    phương tiện gì, bên nào chịu cước phí vận chuy ển và rủi ro khi hàng hóa th ất
    thoát hư hỏng) là một trong những điều kiện cơ sở giao hàng, quy ết định trực
    tiếp đến giá bán hàng hóa, cho nên thường được bên bán ấn định trước hoặc
    thỏa thuận chi tiết với bên mua.
    2.1.5. Giao hàng đúng chất lượng:
    Người bán có nghĩa vụ giao hàng cho người mua đúng ch ất lượng đã
    thỏa thuận.
    Giao hàng đúng quy cách, bao bì: Tuy không phải là chất lượng song quy
    cách, bao bì ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phảm và kh ả năng tiêu
    thụ của hàng hóa. Nếu không được quy định cụ thể thì người bán phải giao
    hàng với bao bì thường dùng cho loại hàng này, đảm b ảo an toàn, có tính đ ến
    khả năng chuyển tải trong điều kiện bốc dỡ vận chuyển thông thường phù
    hợp với thời gian và phương tiện vận tải.
    2.2. Quyền kiểm tra và “trách nhiệm” thông báo về hàng hóa không phù
    hợp với hợp đồng của người mua
    Người mua hoặc đại diện của người mua có quyền tham dự vi ệc ki ểm
    tra chất lượng hàng hóa trước khi giao hàng, nêu các bên có thỏa thuận. Sau
    khi được thông báo mời dự kiểm tra mà người mua vắng mặt thì người bán
    có quyền giao hàng theo thỏa thuận.
    Sau khi hàng được vận chuyển đến nơi giao hàng, người mua có quy ền
    kiểm tra hàng trong một thời hạn hợp lý. Tùy theo đặc tính của từng loại hàng
    mà thời hạn và cách thức kiểm tra cũng khác nhau. (điều 44 Lu ật th ương m ại
    2005)
    Người mua phải khẩn trương kiểm tra hàng trong một thời gian hợp lý,
    nếu phát hiện thấy hàng hóa không phù hợp với hợp đồng thì kịp th ời thông
    báo cho người bán. Bên bán không phải chịu trách nhiệm về những khi ếm
    khuyết của hàng hoá mà bên mua hoặc đại diện của bên mua đã bi ết ho ặc
    phải biết nhưng không thông báo cho bên bán trong thời hạn hợp lý sau khi
    kiểm tra hàng hoá.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...