Tài liệu Chế định quyền con người với việc sửa đổi Hiến pháp tiếp cận từ sự bổ sung, phát triển lý luận của Đ

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Chế định quyền con người với việc sửa đổi Hiến pháp: tiếp cận từ sự bổ sung,


    phát triển lý luận của Đảng ta




    1. Chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân




    Hiến pháp xác lập chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể, tiền đề và mục đích cao nhất của quá trình lập hiến và lập pháp. Thực tiễn quốc gia và bối cảnh quốc tế có những biến chuyển lớn lao trong suốt hơn 20 năm qua kể từ khi Đảng ta khởi xướng công cuộc Đổi mới. Nhận thức lý luận của Đảng ta cũng có những sự điều chỉnh, bổ sung và phát triển mạnh mẽ; thể hiện đậm nét qua các kỳ Đại hội của Đảng. Yêu cầu về việc sửa đổi Hiến pháp phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng và trong tình hình mới là một nguyện vọng chính đáng, tha thiết của toàn thể nhân dân và là nhu cầu cấp thiết. Chính vì vậy, Ðại hội Ðảng XI đã xác định một trong những nhiệm vụ ưu tiên là “khẩn trương nghiên cứu, sửa
    đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 phù hợp với tình hình mới”1.




    Nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Chủ quyền tối cao trong nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Nhà nước cũng như toàn bộ hệ thống chính trị nói chung thuộc về nhân dân. Cách đây hơn 60 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiều quyền hạn đều của dân Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”2. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011- gọi tắt là Cương lĩnh năm 2011) của Đảng ta một lần nữa tái khẳng định nguyên tắc kim chỉ nam và bất di, bất dịch trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước Việt Nam là “Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân ”3. Quan điểm này của Đảng xuyên suốt mọi đường lối cách mạng, xây dựng và phát triển đất nước nhằm bảo đảm không ngừng các quyền và tự do cơ bản của mỗi

    người dân Việt Nam. Đây cũng chính là nguyên tắc nền tảng cho việc lập Hiến và lập pháp. Nó cũng là một nguyên tắc phản ánh tinh thần nhân văn và tiến bộ của nhân loại đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm lĩnh hội và vận dụng sáng tạo, triệt để vào thực tiễn Việt Nam. Đó là “Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm; việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”4 và nguyên tắc “Trăm điều phải có thần linh pháp quyền”. Vì vậy, Điều 1 của Hiến pháp đầu tiên của nước ta (Hiến pháp 1946) đã khẳng định “Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”.


    Sự phát triển nhận thức của Đảng ta về chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân còn thể hiện ở chỗ mở rộng sự tham gia vào đời sống chính trị - xã hội (không gian chính trị) của nhân dân không chỉ trong tổ chức, hoạt động của Nhà nước, của toàn bộ hệ thống chính trị, mà còn bên ngoài Nhà nước, ngoài hệ thống chính trị. Đó là thông qua các tổ chức xã hội, tổ chức cộng đồng và thông qua việc thực hành dân chủ trực tiếp của người dân bằng các hình thức khác nhau.


    Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân ủy quyền cho các cơ quan Nhà nước thông qua những người đại diện cho mình. Chủ quyền tối cao của nhân dân, một phần quan trọng (nếu như không nói là quan trọng nhất) chuyển thành quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, do đặc tính cố hữu của thiết chế nhà nước và thiết chế chính trị nói chung, chủ quyền tối cao của nhân dân không bao giờ (và sẽ không thể như vậy) chuyển toàn bộ hay “nhập” hoàn toàn vào quyền lực nhà nước. Trái lại, nhân dân vẫn luôn “giữ” lại hay “sở hữu vốn có” phần còn lại cái chủ quyền mà không trao trọn cho Nhà nước hay thiết chế chính trị nói chung. Những quyền thiêng liêng ấy, là bất khả xâm phạm, và nó được hiện hữu ở những không gian chính trị bậc hai (ở tầng sâu thẳm) lẩn khuất qua các khuôn mẫu đạo đức, văn hóa, tâm linh, ứng xử và giao tiếp xã hội rộng mở của nhân dân. Hiển nhiên, điều này tất yếu đưa đến việc nhân dân cần nhiều hình thức khác nhau để hiện thực hóa các quyền.

    Một trong những hình thức trực tiếp thực hành chủ quyền tối cao hay quyền dân chủ của nhân dân đó là thông qua sự tham gia rộng rãi của họ vào đời sống chính trị - xã hội một cách trực tiếp ở các hình thức phi thiết chế nhà nước và phi chính trị. Các tổ chức xã hội, quần chúng nhân dân, từ thiện, cộng đồng tự quản, là các trụ cột cốt yếu của thiết chế xã hội nói chung mà ở đó sự thiếu vắng bất cứ thành tố nào đều hạn chế khả năng mở rộng và hiện thực hóa đầy đủ các quyền và tự do cơ bản của công dân.


    2. Sự bổ sung, phát triển lý luận của Đảng ta về quyền con người




    Lần đầu tiên Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) sử dụng các khái niệm “phẩm giá” với tính cách là nội dung then chốt của các quyền con người cũng như bổ sung cụm từ “bảo vệ”, “bảo đảm” (bên cạnh cụm từ “tôn trọng”) vào trong nguyên tắc hiện thực hóa các quyền con người. Chẳng hạn, Cương lĩnh năm 2011 xác định “xây dựng một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, vì lợi ích chân chính và phẩm giá
    con người”5. Cương lĩnh năm 2011 đã bổ sung quan điểm “con người là chủ thể


    phát triển”, “tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ của nhân dân”, cũng như khẳng định “bảo đảm quyền được thông tin, quyền tự do sáng tạo của công dân”6. Rõ ràng, Cương lĩnh đã thể hiện một bước phát triển mới trong nhận thức của Đảng về quyền con người, theo đó không chỉ xem các quyền con người trong giới hạn bởi các quyền công dân, đồng thời đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò và nghĩa vụ của Nhà nước trong việc tôn trọng và bảo đảm (bảo vệ và thực hiện) các quyền con người và quyền công dân. Đây chính là sự phản ánh đậm nét nguyên tắc nền tảng của quyền con người: quyền con người chỉ ra chủ thể của quyền (tức các cá nhân và nhóm xã hội) được hưởng; đồng thời chỉ ra trách nhiệm mà chủ thể nghĩa vụ (Nhà nước) phải đáp ứng, như Cương lĩnh năm 2011 khẳng định “Nhà nước tôn

    trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự


    phát triển tự do của mỗi người”7.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...