Tài liệu Câu Truyện Triết Học

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    172
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Câu Truyện Triết Học

    The Story of Philosophy


    TRÍ HẢI & BỬU ĐÍCH
    Dịch và chú thích


    NHÀ TU THƯ VÀ SƯU KHẢO
    VIỆN ĐẠI HỌC VẠN HẠNH


    Mục Lục


    TIỂU SỬ TÁC GIẢ


    CHƯƠNG I PLATON (428 – 347 BC)


    CHƯƠNG II ARISTOTE ( 384 – 322 BC )


    CHƯƠNG III FRANCIS BACON (1561 – 1626)


    CHƯƠNG IV SPINOZA (1632 - 1677)


    CHƯƠNG V VOLTAIRE ( 1694 – 1777 )


    CHƯƠNG VI IMMANUEL KANT (1724 1804)


    CHƯƠNG VII SCHOPENHAUER ( 1788 – 1860 )


    CHƯƠNG VIII HERBERT SPENCER (1820-1903)


    CHƯƠNG IX FRIEDRICH NIETZSCHE (1844 - 1900)


    TIỂU SỬ TÁC GIẢ


    William James Durant (5 tháng 11, 1885 – 7 tháng 11, 1981) là một nhà sử học, triết học và tác gia Hoa Kỳ.Durant sinh
    tại North Adams, Massachusetts, con của cặp cha mẹ người Pháp và Canada những người đã di cư từ Quebec đến
    Mỹ. Ông đấu tranh cho việc trả lương công bằng, quyền bầu cử của phụ nữ và các điều kiện làm việc tốt hơn cho
    người lao động Mỹ. Durant không chỉ viết về nhiều chủ đề mà còn tiến hành thực hiện các ý tưởng của mình. Nhiều
    người cho rằng, Durant cố gắng đưa triết học đến với những người dân thường. Ông đã viết những cuốn Câu chuyện
    triết học, Những lâu đài triết học, và với sự trợ giúp của vợ ông, Ariel, viết cuốn Câu chuyện văn minh. Ông cũng viết
    nhiều bài báo chí. Ông đã cố gắng cải thiện sự hiểu biết những quan điểm về loài người và sự tha thư của người khác
    cho những nhược điểm và tính bướng bỉnh của loài người.


    Năm 1900, Will tốt nghiệp thầy tu dòng Tên tại Học viện Saint Peter và sau đó là Trường Saint Peter tại thành phố
    Jersey, New Jersey. Năm 1905, ông trở thành một nhà xã hội. Ông tốt nghiệp năm 1907. Ông làm việc như một nhà
    báo cho tờ New York Evening Journal của Arthur Brisbane với thù lao mười dollar một tuần. Khi làm việc cho tờ
    Evening Journal, ông đã viết nhiều bài báo về các vụ tội phạm tình dục.


    Tiếp theo, năm 1907, ông bắt đầu dạy tiếng La tinh, tiếng Pháp, tiếng Anh và hình học tại Trường Seton Hall, ở Nam
    Orange, New Jersey. Durant cũng làm người quản thủ thư viện tại trường. Năm 1911 ông rời khỏi Trường dòng. Ông
    trở thành một giáo viên và người đứng đầu học sinh tại trường Ferrer Modern, một sự thử nghiệm trong việc đào tạo
    quản thủ thư viện. Alden Freeman đã tài trợ để ông đi vòng quanh Châu Âu. Tại Trường Modern, ông yêu và cưới một
    học sinh nhỏ hơn ông mười ba tuổi tên là Ida Kaufmann, sau đó ông đặt cho bà biệt hiệu là “Ariel”. Vợ chồng Durant
    có một con gái, Ethel. Ariel có đóng góp quan trọng trong tất cả các tập của bộ Câu chuyện văn minh nhưng tên bà chỉ
    được in trên trang bìa Tập VII, Thời đại của những lý lẽ bắt đầu.


    Năm 1913, ông rời bỏ công việc giáo viên. Để kiếm sống, ông bắt đầu thuyết trình trong một nhà thờ tôn giáo để kiếm
    mỗi lần năm đến mười dollar; tài liệu cho những bài giảng đó là những cơ sở ban đầu cho cuốn Câu chuyện văn minh.
    Alden Freeman trả học phí để ông tốt nghiệp Đại học Columbia.


    Năm 1917, khi chuẩn bị luận án tiến sỹ triết học, Will Durant đã viết cuốn sách đầu tiên của ông, Triết học và Vấn đề xã
    hội. Ông tranh luận với ý kiến rằng triết học đã không phát triển bởi vì nó né tránh các vấn đề thực tại của xã hội. Ông
    nhận bằng tiến sỹ năm 1917. Ông cũng làm trợ giáo tại Đại học Columbia.


    Cuốn câu truyện triết học trở thành bestseller, giúp cho vợ chồng Durant sự độc lập tài chính cho phép họ du lịch thế
    giới nhiều lần và bỏ ra bốn thập kỷ để viết cuốn Câu chuyện văn minh. Ông nghỉ dạy và bắt đầu viết mười một tập của
    cuốn Câu chuyện văn minh. Will phác thảo một quyền dân sự “Tuyên ngôn của sự phụ thuộc lẫn nhau” trong những năm
    đầu thập kỷ 1940, gần mười năm trước quyết định Brown (xem Brown phần Ban giáo dục) kích thích Phong trào quyền
    dân sự. Bản tuyên ngôn này được trích dẫn trong Biên bản nghị viện vào ngày 1 tháng 10, 1945.


    Vợ chồng Durant phấn đấu thông qua cuốn Câu chuyện văn minh để tạo dựng ra thứ mà họ gọi là “lịch sử toàn bộ”. Họ
    phản đối sự “chuyên hoá” lịch sử, một sự loại bỏ trước thời hạn của thứ mà một số người đã gọi là “sự thờ cúng các
    chuyên gia”. Mục đích của họ là viết một bản “tiểu sử, lý lịch” của văn minh, trong trường hợp này, phương Tây, bao
    gồm không chỉ các cuộc chiến thường lệ, chính trị và tiểu sử của những điều vĩ đại và tầm thường nhất mà còn là văn
    hoá, nghệ thuật, triết học, tôn giáo, và sự trỗi dậy của truyền thông đại chúng. Đa phần của Câu chuyện coi các điều
    kiện sống của người dân thường qua vỏ bọc phương Tây hai nghìn năm trăm năm của họ. Họ cũng đưa ra một khung
    đạo đức cứng rắn cho những vấn đề của họ, luôn luôn nhấn mạnh sự lặp lại của “sự thống trị của kẻ mạnh đối với kẻ
    yếu, sự khôn ngoan đối với cái đơn giản.” Câu chuyện Văn minh là một loạt ghi chép lịch sử thành công nhất. Có
    người cho rằng loạt sách này đã “đưa Simon và Schuter trở thành” như một nhà xuất bản. Bằng chứng cho điều này
    rất dễ nhận thấy; hiếm khi trong thư viện Mỹ không có ít nhất một (hoặc nhiều hơn) bộ Câu chuyện văn minh. Cuốn
    Rousseau và Cách mạng, (1967), tập mười của bộ Câu chuyện lịch sử của họ đã được trao giải Pulitzer về văn
    chương; sau đó được Tổng thống Ford trao giải cao nhất của Chính phủ Mỹ dành cho cá nhân, Huy chương tự do của
    tổng thống năm 1977. Tiếp theo cuốn Rousseau và Cách mạng họ ra một cuốn mỏng hơn về những quan sát được gọi
    là Các bài học lịch sử, vừa tóm tắt, vừa phân tích các sự kiện. Mặc dù họ có ý định viết đến tận thế kỷ 20, nhưng đơn
    giản họ đã hết thời gian và phải dừng ở cuốn thứ mười. Tuy nhiên họ đã xuất bản một cuốn cuối cùng, cuốn số 11,
    Thời đại của Napoleon năm 1975. Hai cuốn của Will được xuất bản sau khi ông chết trong những năm gần đây là
    Những trí tuệ và ý tưởng của mọi thời đại (2002) và Những anh hùng của lịch sử: Một cuốn sử vắn tắt về văn minh từ
    Thời cổ đại đến buổi đầu Thời hiện đại (2001).


    Ông bà Durant có câu chuyện tình yêu cũng đáng chú ý như tình bạn học; họ đã tả chi tiết chuyện này trong cuốn Tự
    truyện của hai người. Họ chết cách nhau trong vòng hai tuần năm 1981 (bà vào 25 tháng 10 và ông ngày 7 tháng 11).
    Mặc dù con gái họ, Ethel, và những đứa cháu cố gắng giữ kín cái chết của Ariel để Will khỏi đau đớn nhưng ông biết
    được điều đó qua báo chí vào buổi chiều. Chỉ trong một tuần ông theo người vợ yêu dấu vào cõi chết ở tuổi 96. Hiếm
    khi có hai học giả sống cuộc đời đáng chú ý như công việc của họ. Ông được chôn cất bên cạnh bà trong Nghĩ
    atrangMemorial Park, Westwood, Los Angeles.


    (Theo Wikipedia tiếng Việt)


    CHƯƠNG I


    PLATON
    (428 – 347 BC)


    1. BỐI CẢNH:


    Nếu bạn nhìn vào một bản đồ của Âu châu, bạn sẽ thấy rằng Hy Lạp giống như một bàn tay chìa các ngón ra biển Địa
    [1]
    trung hải. Phía nam là hòn đảo Crète hình như nằm gọn trong các ngón tay, ngàn năm trước Tây lịch (BC ) đó là nơi
    khởi đầu của văn minh nhân loại. Về phía đông là lãnh thổ thuộc về Á châu tuy ngày nay có vẻ lạc hậu nhưng dưới thời
    Platon là một lãnh thổ rất trù phú với một nền thương mãi, kỹ nghệ cực thịnh và một nền văn hoá phong phú. Về phía
    tây là nước Ý giống như một toà lâu đài ở giữa biển, các đảo Sicile và nước Y-pha-nho (Tây Ban Nha). Tại những nơi
    đó có những nhóm người Hy lạp sinh sống; cuối cùng là xứ Gibraltar, nơi đầy nguy hiểm cho các thuỷ thủ mỗi khi muốn
    vượt eo biển này. Về phía bắc là những xứ man rợ như Thessaly, Epirus và Macédonie. Từ những xứ ấy nhiều bộ lạc
    xuất phát và mở những cuộc tấn công về phía nam, những trận đánh do những văn nhân Hy lạp như Homère kể lại mà
    những chiến sĩ như Périclès chỉ huy. Hãy nhìn một lần thứ hai vào bản đồ, bạn sẽ thấy nhiều chỗ lồi lõm ở bờ biển và
    núi đồi trong đất liền, đâu đâu cũng có những vịnh nhỏ và những mỏm đá trồi ra biển. Nước Hy lạp bị chia cắt và cô lập
    bởi những chướng ngại thiên nhiên đó. Sự đi lại và liên lạc ngày xưa khó khăn hơn bây giờ rất nhiều. Do đó mỗi vùng
    tự phát triển lấy nền kinh tế, tự thành lập lấy nền hành chánh chính trị, tự phát huy tôn giáo, văn hoá và ngôn ngữ của
    mình. Những quốc gia như Locris, Etolia, Phocis, Béothia v.v.


    Hãy nhìn vào bản đồ một lần thứ ba và quan sát vị trí của tiểu quốc Athènes: đó là một tiểu quốc nằm về phía cực đông
    của Hy lạp. Đó là cửa ngõ của Hy lạp để giao thiệp với các quốc gia thuộc vùng Á châu, đó là cửa ngõ để Hy lạp thu
    nhận những sản phẩm và ánh sáng văn hoá từ bên ngoài. Ở đây có một hải cảng rất tiện lợi, hải cảng Pirus, rất nhiều
    tàu bè đến trú ẩn để tránh những lúc sóng to gió lớn. Ngoài ra Pirus còn là nơi xuất phát một hạm đội chiến tranh hùng
    mạnh.


    Vào khoảng năm 490 trước Tây lịch, hai tiểu quốc Sparte và Athènes quên mối hận thù để hợp lực cùng nhau đánh
    đuổi quân xâm lăng Ba Tư lăm le biến Hy lạp thành một thuộc địa của mình. Trong cuộc chiến tranh này, Sparte cung
    cấp lục quân và Athènes cung cấp thuỷ quân. Khi chiến tranh chấm dứt, Sparte giải ngũ quân đội và chịu sự khủng
    hoảng kinh tế do sự giải ngũ này sinh ra. Trong khi đó thì Athènes khôn ngoan hơn, biến hạm đội tàu chiến thành một
    hạm đội tàu buôn và trở nên một nước buôn bán giàu mạnh nhất thời thượng cổ. Sparte điêu tàn trong nghề canh
    nông và bị cô lập với thế giới bên ngoài, trong khi Athènes trở nên thịnh vượng và là một nơi giao điểm của nhiều
    chủng tộc, nhiều nguồn tư tưởng, văn hoá, sự chung đụng nảy sinh sự so sánh, phân tích và suy nghiệm.


    Những truyền thống, lý thuyết gặp gỡ nhau, chống đối nhau, tự đào thải nhau và được cô đọng lại. Trong khi có hàng
    ngàn tư tưởng chống đối nhau, người ta có khuynh hướng hoài nghi tất cả những tư tưởng ấy. Có lẽ những thương
    gia là những người nhiều hoài nghi nhất vì họ thấy quá nhiều, bị tuyên truyền quá nhiều, họ có khuynh hướng coi người
    khác nếu không phải là những người ngu thì cũng là những người lưu manh, họ hoài nghi tất cả những nguồn tư
    tưởng. Theo với thời gian họ phát triển khoa học; toán học nảy sinh nhờ sự giao hoán, thiên văn học nảy sinh với nhu
    cầu hàng hải. Với sự phát triển nền kinh tế, con người có nhiều thì giờ nhàn rỗi, được hưởng nhiều tiện nghi trong một
    không khí trật tự và an ninh. Đó là những điều kiện tiên quyết để nghiên cứu và suy tư. Người ta nhìn vào các ngôi sao
    trên trời không những để tìm phương hướng cho chiếc tàu đang lênh đênh trên mặt biển mà còn để tìm bí mật của vũ
    trụ: những triết gia Ha lạp đầu tiên là những nhà thiên văn. Aristote nói rằng sau khi thắng cuộc chiến tranh, các người
    Hy lạp tìm cách phát huy chiến quả và mở rộng nỗ lực vào nhiều lãnh vực khác. Người ta cố tìm những lời giải đáp cho
    những bài toán trước kia được giao phó cho các thần linh quản trị, những tế lễ tà thuyết nhường bước cho khoa học,
    triết lý bắt đầu từ đó.


    Khởi đầu triết lý là một môn học có tính cách vật lý, người ta quan sát thế giới hữu hình với hy vọng tìm thấy yếu tố khởi
    thuỷ của tất cả vạn vật. Một lối giải đáp tự nhiên là thuyết duy vật của Démocrite (460 - 360 BC). Démocrite nói rằng:
    “trong vũ trụ chỉ có nguyên tử và hư không”, đó là nguồn tư tưởng chính của Hy lạp, người ta lãng quên nó trong một
    thời gian nhưng nó lại được sống dậy với tư tưởng của Epicure (342-279 BC) và Lucrèce (98-55 BC). Tuy nhiên khía
    cạnh quan trọng nhất và đặc sắc nhất của nền triết học Hy lạp được thể hiện trong tư tưởng của những nguỵ luận gia
    đó là những người đi lang thang rày đây mai đó để tuyên truyền cho chủ nghĩa của mình, họ gắn bó với tư tưởng của
    mình hơn tất cả mọi vật trên đời. Phần đông họ là những người rất thông minh hoặc rất thâm thuý, họ bàn cãi về tất cả
    những vấn đề mà người đương thời thắc mắc, họ đặt câu hỏi cho tất cả các vấn đề, họ không sợ đụng chạm đến các
    tôn giáo hoặc các tư tưởng chính trị của các vua chúa, họ mạnh dạn chỉ trích tất cả các định chế xã hội hoặc lý thuyết
    chính trị trước công luận. Về mặt chính trị họ được chia làm hai phái. Một phái giống như Rousseau cho rằng thiên
    nhiên là tốt, văn minh xã hội là xấu, trong thiên nhiên tất cả mọi người đều bình đẳng và con người trở nên bất bình
    đẳng với các định chế xã hội, luật lệ là những phát minh của những kẻ mạnh để trói buộc và thống trị kẻ yếu. Một nhóm
    khác giống như Nietzsche cho rằng thiên nhiên vượt ra ngoài phạm vi của cái xấu và cái tốt, trong thiên nhiên con
    người đã mất bình đẳng, luân lý là một phát minh của kẻ yếu để giới hạn và doạ nạt kẻ mạnh, sức mạnh là nền đạo
    đức tối thượng và sự ao ước tối thượng của con người, và chế độ chính trị cao đẹp nhất hợp thiên nhiên nhất là chế
    độ quý tộc.


    Sự tấn công tư tưởng dân chủ là phản ảnh của sự thịnh vượng của một nhóm người giàu có ở Athènes họ tự lập một
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...