Chuyên Đề Cấu trúc cú pháp của câu tiếng việt Chủ -vị hay đề - thuyết

Thảo luận trong 'Ngôn Ngữ Học' bắt đầu bởi Bống Hà, 25/9/13.

  1. Bống Hà

    Bống Hà New Member

    Bài viết:
    5,424
    Được thích:
    2
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CẤU TRÚC CÚ PHÁP CỦA CÂU TIẾNG VIỆT:
    CHỦ -VỊ HAY ĐỀ - THUYẾT?
    [*]

    PGS.TS Nguyễn Hồng Cổn
    Trong Việt ngữ học hiện đang tồn tại hai quan niệm bất đồng về việc phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt: phân tích theo quan hệ chủ - vị hay phân tích theo quan hệ đề - thuyết. Sự bất đồng này kéo theo những hệ lụy nhất định, gây khó khăn cho việc việc dạy và học tiếng Việt như một bản ngữ và như một ngoại ngữ. Vì vậy, dù muốn hay không, giới Việt ngữ học cũng phải tiếp tục tìm cách giải quyết bất đồng này nhằm tìm ra được một cách tiếp cận thỏa đáng đối với việc phân tích cấu trúc cú pháp tiếng Việt để ứng dụng vào thực tiễn dạy và học tiếng Việt. Bài viết này là một cố gắng đi theo hướng đó. Nội dung của bài viết gồm 2 phần: Phần một trình bày tổng quan các quan niệm khác nhau về phân tích cấu trúc cú pháp của cú và câu tiếng Việt và những bất cập của các quan niệm này đối với việc phân tích cú pháp tiếng Việt. Phần hai đề xuất một cách tiếp cận mới về vấn đề hữu quan, trong đó xác nhận vai trò của cấu trúc chủ - vị với tư cách là cấu trúc cú pháp của cú nhằm mã hóa nghĩa biểu hiện của nó và vai trò của cấu trúc đề - thuyết với tư cách là cấu trúc cú pháp của câu nhằm tổ chức và truyền đạt một thông điệp.

    1. Các hướng phân tích cấu trúc cú pháp của cú/câu tiếng Việt.
    1.1 Hướng phân tích theo quan hệ chủ -vị.
    Đây là hướng phân tích cấu trúc cú pháp câu tiếng Việt phổ biến ở Việt Nam, hiện vẫn được sử dụng trong ngữ pháp nhà trường. Hướng phân tích này chịu ảnh hưởng cách tích phân tích cấu trúc câu theo quan hệ chủ - vị của ngữ pháp truyền thống châu Âu, đặc biệt là ngữ pháp tiếng Pháp. Trong các công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt đầu tiên đi theo hướng này (Trần Trọng Kim 1936, Phan Khôi 1948, Bùi Đức Tịnh 1952), cấu trúc cú pháp của câu thường được mô tả qua khái niệm mệnh đề với nòng cốt là cấu trúc chủ - vị. Theo Trần Trọng Kim (1936) thì: “phép đặt câu là phép đặt các tiếng thành mệnh đề và đặt các mệnh đề để lập thành câu” và “câu lập thành do một mệnh đề có nghĩa lọn hẳn, hoặc do hai hay nhiều mệnh đề”. Mệnh đề bao gồm hai thành phần chính là chủ từ (tiếng đứng làm chủ) và động từ hay tính từ (chỉ cái dụng hay cái thể của chủ từ); ngoài ra còn có túc từ phụ thêm cho chủ từ, động từ, tính từ (tr. 21-29). Để mô tả cấu trúc cú pháp của câu đơn, Phan Khôi (1948) đã xác định một danh sách thành phần câu đầy đủ hơn (gồm 6 thành phần: chủ ngữ, vị ngữ, tân ngữ, bổ túc ngữ, hình dung phụ gia ngữ và phó từ phụ gia ngữ) trong đó chủ ngữ và vị ngữ được coi là hai thành phần chủ yếu của câu: chủ ngữ “nói về cái gì, ấy tức là “chủ thể” trong câu”, còn “vị ngữ thì” thuật thuyết “cái thế nào” về chủ ngữ ấy”. (tr.196-197). Điều đáng lưu ý là Phan Khôi đã thay thế các thuật ngữ chủ từ/động từ bằng các thuật ngữ chủ ngữ/vị ngữ, phản ánh đúng hơn bản chất ngữ pháp (chức năng chứ không phải từ loại) và tính cấp độ (ngữ chứ không phải là từ) của các thành phần câu hữu quan. Bùi Đức Tịnh (1952) cũng cho rằng câu có một mệnh đề (tức câu đơn -NHC) gồm có hai phần: 1. Chủ ngữ: chỉ người hay vật được nói đến, 2. Tuyên ngữ: những gì để nói về người hay vật ấy” (tr.409).
    Quan điểm cho rằng cấu trúc cú pháp của câu (đơn) tương ứng với cấu trúc chủ -vị của mệnh đề ngữ pháp (cú) được các nhà Việt ngữ học kế thừa và phát triển theo những hướng khác nhau. Hầu hết các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục hướng lưỡng phân cấu trúc cú pháp của mệnh đề/câu đơn theo quan hệ chủ -vị và dùng các thuật ngữ cụm từ chủ -vị (Nguyễn Kim Thản 1964), kết cấu chủ - vị (Hoàng Trọng Phiến 1980), cụm chủ -vị (Diệp Quang Ban 1984) hay câu chủ -vị (Lê Xuân Thại 1994) để chỉ kiểu cấu trúc này. Tuy nhiên, một số tác giả khác lại cho rằng cấu trúc cú pháp của câu không phải là một kết cấu chủ -vị mà là một kết cấu tiêu điểm (focal construction) có vị ngữ làm trung tâm và các bổ ngữ tiêu điểm (focal complement), trong đó chủ ngữ cũng chỉ là một loại bổ ngữ (L.C Thompson 1965), hoặc là một cấu trúc nòng cốt tối giản gồm vị ngữ cùng các tham tố của nó là chủ ngữ và bổ ngữ bắt buộc (Nguyễn Minh Thuyết & Nguyễn Văn Hiệp 1998).
    Mặc dù thống nhất dùng chủ ngữ và vị ngữ là hai thành phần chính của câu đơn/mệnh đề nhưng các tác giả theo hướng phân tích này chưa thống nhất với nhau về chức năng của chủ ngữ và vị ngữ. Một số tác giả cho rằng cấu trúc-chủ vị biểu hiện một sự tình, trong đó chủ ngữ thường biểu thị chủ thể của hành động (quá trình hay trạng thái) còn vị ngữ biểu thị hành động (quá trình, trạng thái của chủ thể). Chẳng hạn, theo Trần Trọng Kim (1936), “chủ từ” (chủ ngữ) biểu thị “cái thể của chủ từ” (tức chủ thể), còn tính từ và động từ thì chỉ “cái thể” (tính chất, trạng thái) và “cái dụng” (hành động, quá trình) của chủ từ (tr.21-29). Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1964) quan niệm câu đơn cú là câu diễn tả một sự tình, trong đó chủ từ biểu thị các chủ thể hay là “chủ sự” của sự tình. Tương tự, Diệp Quang Ban (1984) coi chủ ngữ là thành phần chính “chỉ ra cái đối tượng mà câu nói đề cập đến và hàm chứa hoặc có thể chấp nhận cái đặc trưng (hành động, trạng thái, tính chất,v.v ) sẽ được nói ở vị ngữ” (tr.119), còn vị ngữ là thành phần chính “nói lên cái đặc trưng vốn có ở vật hoặc có thể áp đặt hợp lý cho vật nói ở chủ ngữ” (tr. 142). Nói tóm lại, theo cách tiếp cận này cấu trúc chủ -vị có chủ ngữ (ngữ pháp) trùng với chủ thể lôgich (của sự tình).
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...