Thạc Sĩ Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 26/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Luận văn thạc sĩ
    Đề tài: Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan

    MỤC LỤC
    MỞ ĐẦU 1
    1. Lý do chọn đề tài 3
    2. Lịch sử vấn đề 4
    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
    4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
    5. Phương pháp nghiên cứu 8
    6. Đóng góp mới của luận văn 9
    7. Cấu trúc của luận văn 9
    NỘI DUNG 9
    Chương 1: Cơ sở lý thuyết 9
    1.1 Một số vấn đề lý thuyết về câu 9
    1.1.1. Định nghĩa câu 9
    1.1.2. Vấn đề phân loại câu theo mục đích nói 9
    1.1.3. Sơ lược về câu nghi vấn 10
    1.2. Một số vấn đề lý thuyết về ngữ dụng học 16
    1.2.1. Lý thuyết về hành vi ngôn ngữ 16
    1.2.2. Sơ lược về ngữ cảnh 29
    1.2.3. Sơ lược về hội thoại 33
    1.2.4. Lý thuyết về tiền giả định 35
    1.3. Tiểu kết 36
    Chương 2: Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của
    Nguyễn Công Hoan xét về mặt cấu tạo ngữ pháp 38
    2.1. Câu có hình thức nghi vấn được phân loại dựa vào chức vụ ngữ
    pháp và mối quan hệ giữa các thành phần câu 38
    2.1.1. Câu có hình thức nghi vấn có cấu tạo là câu đơn 39
    2.1.2. Câu có hình thức nghi vấn có cấu tạo là câu phức 40
    2.1.3. Câu có hình thức nghi vấn có cấu tạo là câu ghép 46
    2.2. Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan
    được nhận biết dựa vào các dấu hiệu đặc thù 50
    2.2.1. Câu có chứa các từ ngữ chuyên dụng kết hợp với dấu chấm hỏi 54
    2.2.2. Câu có mô hình cấu trúc đặc trưng kết hợp với dấu chấm hỏi 60
    2.2.3. Câu không được đánh dấu kết thúc bằng dấu chấm hỏi 61
    2.3. Tiểu kết 60
    Chương 3: Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của
    Nguyễn Công Hoan nhìn từ bình diện dụng học 64
    3.1. Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan
    được phân loại theo đích ngôn trung 64
    3.1.1. Câu có hình thức nghi vấn được dùng theo lối trực tiếp 64
    3.1.2. Câu có hình thức nghi vấn được dùng theo lối gián tiếp 70
    3.2. Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan
    được phân loại theo chủ ngôn 85
    3.2.1. Câu có hình thức nghi vấn có chủ ngôn là tác giả 86
    3.2.2. Câu có hình thức nghi vấn có chủ ngôn là nhân vật trong
    tác phẩm 87
    3.3. Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan
    được phân loại theo chức năng, vai trò trong hội thoại 89
    3.3.1. Dựa vào chức năng mà câu đảm nhiệm trong cặp thoại 89
    3.3.2. Căn cứ vào vị trí, chức năng trong một cặp thoại 95
    3.4. Hiệu quả sử dụng câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của
    Nguyễn Công Hoan 97
    3.4.1. Tác dụng liên kết các đơn vị của văn bản 97
    3.4.2. Thể hiện được mối quan hệ giữa người nói với người nghe 99
    3.4.3. Đa dạng hoá cách diễn đạt 101
    3.5.Tiểu kết 103
    KẾT LUẬN 105
    Tài liệu tham khảo 108

    MỞ ĐẦU
    1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
    1.1. Theo ngữ pháp học truyền thống, câu có hình thức nghi vấn là một trong
    bốn kiểu câu được phân loại theo mục đích: câu tường thuật, câu nghi vấn, câu
    cầu khiến và câu cảm thán (câu cảm). Đây là kiểu câu được dùng thường
    xuyên trong giao tiếp hàng ngày cũng như trong tác phẩm văn chương.
    1.2. Dưới ánh sáng của ngữ dụng học, kiểu câu có hình thức nghi vấn không
    chỉ được dùng để hỏi (tức hành vi ngôn ngữ trực tiếp) mà còn được dùng với
    nhiều mục đích khác như để chào, cầu khiến, bộc lộ thái độ, v.v .(tức hành vi
    ngôn ngữ gián tiếp). Điều này đã được nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ nói
    đến. Song, câu có hình thức nghi vấn có thể được dùng để thực hiện những
    hành vi ngôn ngữ nào? Đến nay vẫn chưa có một số liệu cụ thể và cũng như
    chưa có một công trình nghiên cứu nào chuyên sâu về vấn đề này.
    1.3. Nguyễn Công Hoan là một tác giả xuất sắc trong dòng văn học hiện thực
    nước nhà. Ông bắt đầu cầm bút viết văn vào khoảng những nă m 1920-1923 và
    tự khẳng định được mình một cách mạnh mẽ và vững chắc vào khoảng nhữ ng
    năm 1929-1931 trở đi. Ngay từ những truyện ngắn đầu tay, Nguyễn Công
    Hoan đã chú ý lấy đề tài trong những chuyện đáng cười, đáng khinh, đáng ghét
    và đáng thương trong xã hội lúc bấy giờ. Và trong cả quá trình sáng tác về sau
    này, đó là loại đề tài hầu như duy nhất mà ông theo đuổi và ngày càng mở rộng
    phạm vi quan sát, đối tượng miêu tả và nội dung đả kích.
    Nguyễn Công Hoan đã dùng ngòi bút của mình vạch ra tất cả những sự
    thật đen tối của một chế độ xã hội tàn nhẫn và mục nát, chế độ thực dân phong
    kiến. Song các tác phẩm của ông nổi tiếng và thu hút người đọc không phải chỉ vì
    nội dung phản ánh hiện thực mà còn vì cái tài sử dụng ngôn ngữ của nhà văn.
    Có thể nói câu có hình thức nghi vấn được Nguyễn Công Hoan sử dụng
    khá nhiều và đa dạng. Nó đã góp phần tạo nên giá trị nghệ thuật cho tác phẩm
    và phong cách của tác giả.
    1.4. Cũng như trong giao tiếp nói chung, trong văn của Nguyễn Công Hoan nói
    riêng, câu có hình thức nghi vấn chưa được nghiên cứu một cách toàn diện.
    Chọn đề tài Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn
    Công Hoan để nghiên cứu, chúng tôi muốn làm rõ thêm kiểu câu này về mặt lý
    thuyết cũng như thực tiễn sử dụng.
    2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
    2.1. Về tình hình nghiên cứu hành vi hỏi và câu nghi vấn
    Trong giao tiếp, hỏi là một dạng hành vi ngôn ngữ rất phổ biến, một
    thành tố tham gia thường xuyên vào cấu trúc hội thoại. Mặt khác, nhờ sự tác
    động của ngữ cảnh và thông qua những sự chuyển hoá khác nhau mà câu nghi
    vấn có thể thực hiện những chức năng giao tiếp, những hành vi tại lời rất đa
    dạng. Chính vì thế mà trong ngôn ngữ học cần chú ý nghiên cứu câu nghi vấn
    và hành vi hỏi. Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu về câu nghi vấn và
    hành vi hỏi đáng chú ý như sau:
    1. Hoàng Trọng Phiến, Ngữ pháp tiếng Việt - Câu, NXB Đại học quốc
    gia HN, 2008;
    2. Nguyễn Thị Thìn, Câu nghi vấn tiếng Việt, một số kiểu câu nghi vấn
    không dùng để hỏi, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, 1994;
    3. Nguyễn Thị Lương, Tiểu từ tình thái dứt câu dùng để hỏi với việc
    biểu thị các hành vi ngôn ngữ, Luận án PTS khoa học Ngữ văn, HN,1996;
    4. Lê Đông, Ngữ nghĩa- Ngữ dụng câu hỏi chính danh, Luận án PTS
    khoa học Ngữ văn, HN, 1996;
    5.Nguyễn Đăng Sửu, Câu hỏi tiếng Anh trong sự đối chiếu với tiếng
    Việt, Luận án TS Ngữ Văn, HN, 2002.
    6. Lê Anh Xuân, Câu trả lời gián tiếp có nghĩa hàm ẩn cho câu hỏi chính
    danh, Luận án TS Ngữ văn, HN, 2004.
    Ngoài các công trình nghiên cứu nói trên, còn có thể kể đến một số bài
    tạp chí, một số khoá luận tốt nghiệp Đại học như:
    - Câu trả lời và câu đáp của câu hỏi, Lê Đông, Ngôn Ngữ số phụ, 1985;
    - Cách tổ chức câu hỏi trong tiếng Kơho, Tạ Văn Thông trong Những
    vấn đề ngôn ngữ phương Đông, Viện ngôn ngữ học, 1985;
    - Thử tìm hiểu phát ngôn hỏi và phát ngôn trả lời trong sự tương tác lẫn
    nhau giữa chúng trên bình diện giao tiếp, Nguyễn Chí Hoà, ngôn ngữ số 1, 1993;
    - Vai trò của thông tin tiền giả định trong cấu trúc ngữ nghĩa - ngữ dụng
    của câu hỏi, Lê Đông, Ngôn ngữ số 2, 1994;
    - Một vài đặc điểm chung của câu nghi vấn (qua ngôn liệu một số ngôn
    ngữ), Nguyễn Đăng Sửu, Kỉ yếu hội thảo ngữ học trẻ, 1998;
    - Một số tiểu từ tình thái đứng cuối câu dùng để hỏi, Nguyễn Thị Tuyết
    Mai trong Những vấn đề ngôn ngữ học, Kỉ yếu hội nghị khoa học, 2001, Viện
    ngôn ngữ học;
    - Câu hỏi trong truyện ngắn Nam Cao, Nguyễn Thị Hồng Nhung, Khoá
    luận tốt nghiệp, Khoa ngôn ngữ học, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn,
    2005 .
    Có thể thấy rằng, việc nghiên cứu về hành vi hỏi và câu nghi vấn đã
    nhận được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Tuy nhiên, các nhà nghiên
    cứu chủ yếu dừng lại ở việc tìm hiểu câu nghi vấn được dùng với mục đích
    trực tiếp hoặc mới chỉ đề cập đến một khía cạnh của hành vi hỏi trong khi câu
    nghi vấn còn nhằm diễn đạt nhiều mục đích khác nhau. Đặc biệt, việc nghiên
    cứu về câu nghi vấn trong những tác phẩm văn học cụ thể chưa được chú ý
    một cách đầy đủ.
    2.2. Về tình hình nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Công Hoan
    Nguyễn Công Hoan là một nhà văn hiện thực lớn, với một khối lượng
    sáng tác đồ sộ, có một vị trí quan trọng trong lịch sử Văn học Việt Nam hiện
    đại. Từ khi xuất hiện trên văn đàn đến nay, ông luôn được sự quan tâm, chú ý
    của giới nghiên cứu, phê bình cũng như của nhiều thế hệ bạn đọc.
    Điểm lại tình hình nghiên cứu, tư liệu của chúng tôi cho thấy có rất
    nhiều công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan. D ưới đây là một số công
    trình tiêu biểu:
    1. Nguyễn An, Nguyễn Công Hoan (1903-1977), in trong Nhà văn của
    các em , Nxb Văn học, HN, 1996;
    2. Hoàng Hữu Các, Về việc giảng dạy các tác phẩm của Nguyễn Công
    Hoan trong nhà trường, in trong Nguyễn Công Hoan, nhà văn hiện thực lớn,
    NXB Hội nhà văn, HN, 1993;
    3. Nguyễn Minh Châu, Nhà văn Nguyễn Công Hoan, Văn nghệ số 40, 1985;
    4. Trương Chính, Đọc Tuyển tập Nguyễn Công Hoan, Tuần báo văn
    nghệ số 48, 1985;
    5. Phan Cự Đệ, Nguyễn Công Hoan - Trong Văn học Việt Nam 1930-1945 (tập II), Nxb Giáo dục, HN, 1961;
    6. Phan Cự Đệ, Nguyễn Công Hoan - Trong Nhà văn Việt Nam 1945-1975 (tập II), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, HN, 1983;
    7. Lê Thị Đức Hạnh, Vấn đề nông dân và cuộc sống nông thôn trong
    truyện của Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng, Tạp chí văn học số 6, 1970;
    8. Lê Thị Đức Hạnh , Sáng tác của Nguyễn Công Hoan sau Cách mạng,
    Tạp chí văn học số 6, 1971;
    9. Lê Thị Đức Hạnh, Nghệ thuật trào phúng trong truyện ngắn của
    Nguyễn Công Hoan, Tạp chí văn học, 1975;
    10. Hội nhà văn, Nguyễn Công Hoan, nhà văn (1903-1977), Nhà văn
    Việt Nam hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, HN, 1997;
    11. Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Công Hoan, Từ điển văn học (tập
    II), Nxb Khoa học xã hội, HN, 1984;
    12. Hoàng Như Mai, Có nhiều tác giả Nguyễn Công Hoan trong một
    Nguyễn Công Hoan, Lời nói đầu Bóng người qua, Nxb Văn nghệ, TPHCM, 1988;
    13. Nguyễn Đăng Mạnh, Đọc lại truyện ngắn trào phúng của Nguyễn
    Công Hoan trong Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học, HN, 1983 .
    Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều tạp chí và khóa
    luận tốt nghiệp nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan cùng với các tác phẩm của
    ông. Có thể khẳng định lại một lần nữa rằng: Nguyễn Công Hoan là một nhà
    văn lớn. Cuộc đời, sự nghiệp sáng tác và các tác phẩm văn học của ông đã
    được giới nghiên cứu, phê bình văn học đặc biệt quan tâm song việc nghiên
    cứu về câu nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan thì ch ưa thực sự
    được quan tâm.
    Như vậy, vấn đề nghiên cứu về câu nghi vấn cũng như về tác giả
    Nguyễn Công Hoan đã và đang thu hút sự quan tâm của một số nhà nghiên
    cứu. Những công trình nghiên cứu đã công bố về Nguyễn Công Hoan phần lớn
    mới chỉ dừng lại ở việc sưu tầm các tác phẩm của ông hoặc phê bình một số
    tác phẩm của tác giả. Có những công trình chỉ chọn một tác phẩm tiêu biểu của
    Nguyễn Công Hoan để tìm hiểu. Có thể nói, chưa có công trình nào nghiên
    cứu về câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan một
    cách toàn diện. Chọn đề tài Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của
    Nguyễn Công Hoan để nghiên cứu, chúng tôi muốn làm rõ thêm kiểu câu này
    về mặt lý thuyết cũng như thực tế sử dụng. Hy vọng kết quả nghiên cứu sẽ một
    phần làm sáng tỏ thêm về nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ trong sáng tác của
    Nguyễn Công Hoan, mặt khác nó có thể làm tư liệu tham khảo cho những ai
    muốn nghiên cứu về ngôn ngữ của Nguyễn Công Hoan nói chung và câu có
    hình thức nghi vấn trong văn Nguyễn Công Hoan nói riêng.
    3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
    3.1. Đối tượng nghiên cứu
    Đối tượng nghiên cứu của đề tài là kiểu câu có hình thức nghi vấn được
    sử dụng trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan.
    3.2. Phạm vi nghiên cứu
    Có thể nghiên cứu câu có hình thức nghi vấn trong văn Nguyễn Công
    Hoan về nhiều phương diện, nhưng luận văn này giới hạn phạm vi nghiên cứu
    như sau:
    - Về đối tượng khảo sát: Luận văn giới hạn phạm vi khảo sát là cuốn
    Truyện ngắn chọn lọc của Nguyễn Công Hoan - Nxb Văn học, 2005 và cuốn
    tiểu thuyết Bước Đường Cùng - Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2006.
    -Về nội dung nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu đối tượng về 2 phương
    diện: cấu trúc hình thức, ngữ nghĩa và hành vi ngôn ngữ.
    4. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
    4.1. Mục đích nghiên cứu
    Nghiên cứu đề tài này người viết nhằm mục đích là m rõ thêm kiểu câu
    có hình thức nghi vấn về mặt lý luận cũng như thực tiễn sử dụng, từ đó có thể
    giúp cho bản thân và người đọc có cái nhìn đúng đắn khi nghiên cứu và giảng
    dạy về kiểu câu phân loại theo mục đích nói.
    4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
    Để đạt được mục đích đặt ra, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau đây:
    - Nghiên cứu những vấn đề lý thuyết làm căn cứ lý luận cho đề tài;
    - Khảo sát tư liệu, phân loại tư liệu theo từng tiêu chí;
    - Miêu tả, phân tích tư liệu theo các nhóm đã phân loại;
    - Tổng kết các kết quả nghiên cứu rút ra từ việc miêu tả, phân tích ngữ liệu;
    - Trình bày quan điểm của người viết về đối tượng nghiên cứu.
    5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
    Thực hiện đề tài này, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ
    yếu sau đây:
    5.1. Phương pháp thống kê - phân loại
    Phương pháp nghiên cứu này dùng để khảo sát và phân loại tư liệu, cụ
    thể là khảo sát các câu có có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn
    Công Hoan và phân loại chúng.
    5.2. Phương pháp phân tích - tổng hợp
    Phương pháp nghiên cứu này dùng để miêu tả, phân tích tư liệu và tổng
    kết các kết quả nghiên cứu.
    5.3. Phương pháp so sánh - đối chiếu
    Phương pháp nghiên cứu này dùng để so sánh, đối chiếu các tiểu loại
    đối tượng về tần số sử dụng và giá trị biểu đạt.
    6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN
    6.1. Về mặt lý luận
    - Luận văn góp phần làm rõ thêm về các kiểu hành vi ngôn ngữ gián tiếp
    được thể hiện dưới hình thức hành vi hỏi. Nói khác đi, câu có hình thức nghi
    vấn có khả năng dùng để thực hiện những hành vi ở lời gián tiếp.
    - Việc nghiên cứu câu nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan
    còn có ý nghĩa trong việc chỉ ra những nét riêng biệt trong việc sử dụng ngôn
    từ của Nguyễn Công Hoan so với các nhà văn khác. Từ đó, làm rõ phong cách
    nhà văn.
    6.2. Về mặt thực tiễn
    Kết quả của luận văn sẽ giúp cho việc hiểu, giảng dạy các tác phẩm của
    Nguyễn Công Hoan trong nhà trường đạt hiệu quả hơn, làm tài liệu tham khảo
    cho những ai quan tâm đến nhà văn Nguyễn Công Hoan và câu có hình thức
    nghi vấn. Đây cũng có thể xem như là một cơ sở cho những công trình nghiên
    cứu tiếp theo về câu nghi vấn và về tác giả Nguyễn Công Hoan.
    7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
    Ngoài phầ n Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận vă n
    gồm 3 chương:
    Chương 1: Cơ sở lý thuyết
    Chương 2: Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn
    Công Hoan xét về mặt cấu tạo ngữ pháp
    Chương 3: Câu có hình thức nghi vấn trong tác phẩm của Nguyễn
    Công Hoan xét về phương diện dụng học

    NỘI DUNG
    Chương 1
    CƠ SỞ LÝ THUYẾT
    Chương này trình bày một số lý thuyết được luận văn dùng làm căn cứ
    để xử lý đối tượng nghiên cứu. Cụ thể đó là lý thuyết về câu và lý thuyết về
    ngữ dụng học.
    1.1. Một số vấn đề lý thuyết về câu
    1.1.1. Định nghĩa câu
    Có thể nói, cho đến nay vẫn chưa có được cách định nghĩa câu nào thoả
    mãn tất cả hoặc hầu hết các nhà ngữ pháp. Có khá nhiều quan điểm khác nhau
    về vấn đề nêu lên định nghĩa câu. Trong đó phải kể đến định nghĩa câu của
    Nguyễn Hiến Lê trong Để hiểu văn phạm Việt Nam, của Hữu Quỳnh trong
    Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại, của Diệp Quang Ban trong Ngữ pháp tiếng Việt
    và của Uỷ ban khoa học xã hội. Vấn đề định nghĩa câu phụ thuộc vào góc nhìn
    của nhà nghiên cứu, vào mục đích nghiên cứu và giảng dạy cũng như học tập
    ngữ pháp. Ở đây chúng tôi theo định nghĩa của tác giả Diệp Quang Ban vì đó
    là cơ sở quan trọng phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
    Diệp Quang Ban dựa vào 4 tiêu chí: hình thức, nội dung, chức năng và
    lĩnh vực nghiên cứu đã nêu lên định nghĩa về câu như sau: "Câu là đơn vị của
    nghiên cứu ngôn ngữ có cấu tạo ngữ pháp (bên trong và bên ngoài) tự lập và
    ngữ điệu kết thúc, mang một ý nghĩa tương đối trọn vẹn hay thái độ, sự đánh
    giá của người nói, giúp hình thành và biểu hiện, truyền đạt, tư tưởng, tình
    cảm. Câu đồng thời là đơn vị thông báo nhỏ nhất bằng ngôn ngữ" ( Ngữ pháp
    tiếng Việt, tập hai, Nxb Giáo dục, trang 106).
    1.1.2. Vấn đề phân loại câu theo mục đích nói
    Có nhiều tiêu chí để phân loại câu như: phân loại câu theo cấu tạo ngữ
    pháp, phân loại câu theo mối quan hệ với hiện thực, phân loại câu theo mục
    đích nói. Ở đây, xin đi sâu vào vấn đề phân loại câu theo mục đích nói vì đó là
    cơ sở lý thuyết liên quan trực tiếp đến việc xử lý đề tài.
    Phân loại câu theo mục đích nói là cách nhìn có tính chất truyền thống
    về câu trong hoạt động của nó. Căn cứ vào mục đích nói, người ta phân thành
    4 kiểu câu, đó là:
    - Câu tường thuật (còn gọi là câu kể);
    - Câu nghi vấn (còn gọi là câu hỏi);
    - Câu mệnh lệnh (còn gọi là câu cầu khiến);
    - Câu cảm thán (còn gọi là câu cảm).
    Có nhiều ý kiến cho rằng không nên tách câu cảm thán ra thành kiểu
    riêng vì 3 kiểu câu kia đều có thể cảm thán khi đưa vào chúng những mức độ
    tình cảm khác nhau. Quan điểm này có thể thích hợp với những thứ tiếng nào
    đó, còn đối với tiếng Việt, ngoài ngữ điệu, câu cảm thám còn có một bộ phận
    tiểu từ, phụ từ chuyên dụng, hoặc có thêm cách cấu tạo đặc thù phân biệt được
    với những kiểu câu khác. Vì vậy không nên nhấn chìm câu cảm thán vào
    những kiểu câu khác.
    1.1.3. Sơ lược về câu nghi vấn
    a. Khái niệm
    Câu nghi vấn là loại câu thường được dùng để nêu lên điều chưa biết
    hoặc còn hoài nghi và chờ đợi trả lời, giải thích của người tiếp nhận câu đó. Về
    mặt hình thức, câu nghi vấn cũng có những dấu hiệu đặc trưng nhất định.
    Câu nghi vấn tiếng Việt được cấu tạo nhờ các phương tiện sau đây
    (trong sự đối chiếu với câu tường thuật):
    - Các đại từ nghi vấn;
    - Kết từ "hay" (với ý nghĩa lựa chọn);
    - Các phụ từ nghi vấn;
    - Các tiểu từ chuyên dụng;

    TÀI LIỆU THAM KHẢO
    1. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQG Hà Nội.
    2. Diệp Quang Ban (2008), Ngữ pháp tiếng Việt, tập hai, Nxb Giáo dục.
    3. Đỗ Hữu Châu (2007), Đại cương ngôn ngữ học, tập hai, Ngữ dụng học,
    Nxb Giáo dục.
    4. Đỗ Hữu Châu (2003), Giáo trình Ngữ dụng học, Nxb Đại học Sư phạm.
    5. Nguyễn Đức Dân (1998), Ngữ dụng học, tập một, Nxb Giáo dục.
    6. Lê Đông (1985), Câu trả lời và câu đáp của câu hỏi, Ngôn ngữ số phụ.
    7. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên), Đoàn Thiện Thuật, Nguyễn Minh Thuyết
    (2003), Dẫn luận ngôn ngữ, Nxb Giáo dục.
    8. Nguyễn Thiện Giáp (2000), Dụng học Việt ngữ, Nxb ĐHQGHN.
    9. Lê Thị Đức Hạnh giới thiệu và tuyển chọn (2003), Nguyễn Công Hoan về
    tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
    10. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biê n) (2000), Từ điển
    thuật ngữ văn học, Nxb ĐHQGHN.
    11. Cao Xuân Hạo (chủ biên) (2007), Ngữ pháp chức năng, quyển một, Câu
    trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
    12. Cao Xuân Hạo (2006), Tiếng Việt - Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Nxb
    Khoa học - Xã hội.
    13. Nguyễn Công Hoan (2006), Bước Đường Cùng, Nxb Tổng hợp Đồng Nai.
    14. Nguyễn Công Hoan (1971), Đời viết văn của tôi, Nxb Văn học.
    15. Nguyễn Công Hoan (2007), Tác giả trong nhà trường, Nxb Văn học.
    16. Nguyễn Công Hoan (2005), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học.
    17. Đinh Trọng Lạc (1999), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
    18. Nguyễn Thị Lương (2009), Câu tiếng Việt, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội.
    19. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Đọc lại truyện ngắn trào phúng của Nguyễn
    Công Hoan trong Nhà văn, tư tưởng và phong cách, Nxb Văn học.
    20. Nguyễn Thị Tuyết Mai (2001), Một số tiểu từ tình thái đừng cuối câu
    dùng để hỏi, Những vấn đề ngôn ngữ học-kỷ yếu hội nghị khoa học, Viện
    Ngôn ngữ.
    21. Lưu Thị Thuý Ngọc (2010), Câu có hình thức nghi vấn dùng với mục đích
    phủ định, cầu khiến, khẳng định trong tiếng Việt, Luận văn tốt nghiệp, Đại
    học Sư phạm Thái Nguyên.
    22. Nguyễn Thị Hồng Nhung (2005), Câu hỏi trong truyện ngắn Nam Cao,
    Khoá luận tốt nghiệp, Khoa ngôn ngữ học, Đại học Khoa học xã hội và
    nhân văn.
    23. Hoàng Phê (chủ biên) (2007), Từ điển tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học,
    Nxb Đà Nẵng.
    24. Hoàng Phê (1982), Tiền giả định và hàm ngôn trong ngữ nghĩa của ngôn
    ngữ, Ngôn ngữ số 2.
    25. Hoàng Trọng Phiến (2008), Ngữ pháp tiếng Việt câu, Nxb ĐHQGHN.
    26. Vũ Dương Quỹ tuyển chọn và biên soạn (1999), Ngô Tất Tố, Nguyễn
    Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nxb Giáo dục.
    27. Hữu Quỳnh (1990), Ngữ pháp tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục.
    28. F.de.Saussure (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học
    Xã hội.
    29. Trần Đình Sử (1997), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục.
    30. Trần Đình Sử, Nguyễn Thanh Tú (2001), Thi pháp truyện ngắn trào
    phúng Nguyễn Công Hoan, Nxb ĐHQGHN.
    31. Nguyễn Kim Thản (2009), Cơ sở ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã
    hội, Hà Nội.
    32. Trần Ngọc Thêm (2000), Hệ thống liên kết v ăn bản tiếng Việt, Nxb Giáo dục.
    33. Nguyễn Thị Thìn (1994), Câu nghi vấn tiếng Việt, một số kiểu câu nghi
    vấn không dùng để hỏi, Luận án PTS khoa học Ngữ văn.
    34. Uỷ ban Khoa học Xã hội (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã
    hội, Hà Nội.
    35. Viện ngôn ngữ học (2006), Những vấn đề ngôn ngữ học, Nxb Khoa học
    Xã hội.
    36. Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng
    37. Nguyễn Như Ý (chủ biên), Hà Quang Năng, Đỗ Việt Hùng, Đặng Ngọc
    Lệ (1996), Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...