Tài liệu Cận hiện về cuộc tập kích chiến lược không quân 12 ngày đêm cuối năm 1972 của Đế quốc Mỹ

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Cận hiện về cuộc tập kích chiến lược không quân 12 ngày đêm cuối năm 1972 của Đế quốc Mỹ

    LỜI MỞ ĐẦU

    Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước của ta, 12 ngày đêm là những ngày đêm chiến thắng mang ý nghĩa lịch sử, đánh dấu 1 bước ngoặt trong sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Chúng ta đã đập tan cuộc tập kích chiến lược quy mô lớn bằng không quân của Mỹ đối với miền Bắc nước ta, làm thất bại hoàn toàn âm mưu thương lượng trên thế mạnh của chính quyền Nĩch-xơn. Đây là thắng lợi to lớn nhất, chiến công xuất sắc nhất của chiến tranh nhân dân trên miền Bắc Xã hội chủ nghĩa đánh thắng chiến tranh phá hoại của tên Đế quốc đầu sỏ. Thất bại này của đế quốc Mỹ rất to lớn, hậu quả của thất bại này sâu xa và nhiều mặt chưa thể lường hết được.
    1. Hai con át chủ bài và thủ đoạn của đế quốc Mỹ
    Ngày 22.10.1972, Nich-xơn tuyên bố ngừng ném bom bắn phá miền Bắc từ vĩ tuyến 20 trở ra. Nhưng hành động này của y không giống với hành động của Giôn-xơn hồi tháng 3.1968 là xuống thang chiến tranh, mà thực chất đánh lừa dư luận trên thế giới và ở nuớc Mỹ, nhằm hỗ trợ cho y trong cuộc bầu cử tổng thống vào cuối tháng 12.
    Quả nhiên, ngay sau khi tái đắc cử tổng thống (8.11.1972), Nich-xơn liền trở giọng đe doạ, toan tính mưu đồ thâm hiểm tiếp tục tiến hành chiến tranh phá hoại miền Bắc nhưng với mục tiêu tập trung hơn để giành hiệu quả cao hơn. Để thực hiện âm mưu đó, Mỹ tung ra 2 con át chủ bài là B52 và F111, và tin chắc rằng miền Bắc sẽ phải chịu khuất phục.
    Tính đến thời điểm báy giờ, B52 và F111 là 2 loại máy bay chiến đấu hiện đại nhất của Mỹ.
    B52 là loại máy bay ném bom to nhất thế giới mà chuyên viên quân sự tư sản gọi là” siêu pháo đài bay”. Chiều dài của nó là 18m, sải cánh rộng 56.4m, chiều cao là 12.4m. Với bán kính hoạt động trong 6400 km, từ các căn cứ không quân của Mỹ, các máy bay khổng lồ này có thể mang bom đổ xuống đầu tất cả các dân tộc nào không chịu khuất phục Mỹ. B52 có 8 động cơ tuôcbin quạt, mỗi động cơ có sức kéo 7700 kg, có thể bay ở độ cao17 km. Tốc độ bay khi đường dài là 810 km, tốc độ bay khi tiến đến mục tiêu ném bom đạt 900 km/h. Trọng lượng cất cánh từ 200- 230 tấn mang theo 27- 30 tấn bom. Thời gian hoạt động trên không là 9h. Trong kíp bay có 6 người gồm 1 lái chính, 1 lái phụ, 1 hướng dẫn đuờng bay, 1điều khiển ném bom, 1 điều khiển các phương tiện chống điện tử, 1 bắn súng đối không.
    Trong chương trình hiện đại hoá B52, Mỹ trang bị cho B52 những thiết bị điện tử tối tân nhất với hi vọng là từng chiếc có thể tránh được đối với nó bằng cách làm loá mắt tất cả các loại máy móc điện tử của các thứ vũ khí, phương tiện phòng không của đối phương, gạt tất cả đường đạn của đối phương ra xa phạm vi nó đang bay. Hệ thống khí tài trinh sát điện tử và chống điện tử làm việc hoàn toàn tự động.
    Khi B52 vào đến tầm nhìn của rađa cảnh giới đối phương thì máy trinh sá điện tử của nó hoạt động ngay. Máy này thu tất cả tín hiệu của ra đa, rồi cung cấp số liệu cho các máy phát tín hiệu nhiễu sóng tương ứng làm rối loạn việc quan sát của đối phương. Ngoài ra B52 còn mang theo nhiều tên lửa phóng các ngẫu cực để gây ra những đám mây phản xạ bảo vệ máy bay không bị rađa phát hiện. Đó là những lá nhôm mỏng, các băng kim loại, sợi thuỷ tinh pha thép.
    Chưa yên tâm với khả năng làm nhiễu sóng rađa, Mỹ còn cải tiến bằng cách sản xuất tên lửa Quail chuyên làm nhiệm vụ chết thay cho B52. Vào đến tầm nguy hiểm, B52 phóng tên lửa loại này đánh lừa đối phương. Chúng chỉ dài 4m, nặng 500 kg nhưng sẽ phát tín hiệu như B52.
    Năm 1971, Mỹ chế tạo thành công tên lửa SCAD có khả năng quấy rối đối phương nhiều hơn.
    Nhằm biến B52 thành 1 vũ khí chiến đáu hoàn hảo số 1, Mỹ tiếp tục chế tạo ra những máy bay trinh sát điện tử chuyên làm nhiệm vụ báo động” Có máy bay đối phương đuổi theo”,” Có tên lửa đối phương bắn tới”. Trường hợp có máy bay đuổi theo, B52 sẽ gọi đàn lũ máy bay tiêm kích hộ tống bay đến cứu. Trường hợp có tên lửa rựot đuổi, nó sẽ tự động bắn ra những quả đạn lửa tạo ra nhiều nguồn hồng ngoại nhử tên lửa đối phương. Sau này Mỹ còn chế tạo thành công những thiết bị phát ra những tín hiệu hồng ngoại rất mạnh có thể phá vỡ sự hoạt động bình thường của bộ phận dẫn hồng ngoại lắp đầu tên lửa đối phương làm cho chúng rối loạn không thể bám theo mục tiêu nữa.
    Máy bay siêu âm F111 có khả năng cụp cánh xoè cánh khi cần thiết. Nó xoè cánh khi chở nặng, lúc cất cánh, hạ cánh, lúc bay thấp với tốc độ nhanh. Khi xoè cánh nó giống như một máy bay vận tải, sải cánh dài 19 m. Chở được 10 tấn bom và bay với tốc độ trung bình là 900-1080 km/h
    Sau khi trút hết bom, nó cụp cánh lao vút lên cao để bay với tốc độ lớn, lúc này toàn máy bay trở thành một hình tam giác cân giống như đầu mũi tên.
    Tốc độ lớn nhất của máy bay F111 theo lý thuyết là 2700 km/h bằng 2.5 lần tốc độ của tiếng động.
    F111 là máy bay chiến đấu làm được nhiều nhiệm vụ: tiêm kích( chiến đấu trên không) cường kích( bay thấp, đánh mục tiêu mặt đất), và có khả năng ném bom ở độ cao rất thấp 70 m cách mặt đất.
    Ưu điểm của loại máy bay này là bay đêm, bay rất thấp, khó phát hiện từ xa, khi nó lao đến thì vụt qua rất nhanh, thời cơ ngắn chỉ vài giây. Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm như chiều dài 22.4 m, tổng trọng lượng lên tới 31.35 tấn, to xác nên dễ trúng đạn. Mặc dù tốc độ cao nhưng khi bay thấp, đánh thấp tốc độ chỉ khoảng 880 km/h. Sở trường này có thể tránh được tầm quan sát của rađa nhưng không tránh được lưới lửa tầm thấp dày đặc của ta. Chỉ cần theo dõi chặt chẽ, nắm được quy luật dự kiến đúng mục tiêu đánh phá, hướng bay, đường bay tới, độ cao và tốc độ khi lao xuống thì việc hạ loại máy bay này không phải quá khó.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...