Thạc Sĩ Cải thiện quy trình tái định cư ở Khu Kinh tế Dung Quất, Tỉnh Quảng Ngãi

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Nhu Ely, 14/4/14.

  1. Nhu Ely

    Nhu Ely New Member

    Bài viết:
    1,771
    Được thích:
    1
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LUẬN VĂN THẠC SỸ
    NĂM 2012


    PHẦN MỞ ĐẦU
    1.1 Bối cảnh nghiên cứu

    Ở các nước đang phát triển, tỉ lệ dân cư bị di dời liên quan đến các chương trình phát triển ngày càng cao do nhu cầu về cơ sở hạ tầng tăng nhanh do các dự án (DA) phát triển và mật độ dân cư tăng đáng kể. Các chương trình tái định cư (TĐC) bắt buộc phải di dời toàn bộ dân cư đến khu vực TĐC mới, khiến làm phá hủy cấu trúc xã hội và công việc của những quần thể dân cư ở nơi cũ. Các DA lớn thông thường ảnh hưởng sâu sắc đến người dân do mất đất sản xuất (SX) nông nghiệp (NN), nhà cửa, vườn và các sinh kế khác (Zaman, 1996).
    Sau năm 1986, Việt Nam đã có những chuyển đổi đáng kể về kinh tế xã hội. Quá trình phát triển kéo theo đô thị hóa ngày càng mạnh khiến nhu cầu đất đai tăng nhanh để đáp ứng tốc độ phát triển và nhu cầu nhà ở của dân cư thành thị. Tuy nhiên, do quỹ đất dành cho phát triển có hạn, quá trình thu hồi đất chủ yếu là chuyển đổi từ đất NN sang đất sử dụng cho mục đích phát triển công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt trong những năm gần đây.
    Việc thu hồi đất và TĐC nói chung thường phải được thực hiện trong một khung pháp lý, chính sách và hành chính nhất định. Tuy nhiên, hầu hết những người trong diện di dời đã bị bỏ lại trong quá trình phát triển do nhiều nguyên nhân, đặc biệt là do qui trình bồi thường, hỗ trợ và TĐC không thực tế và phù hợp với nhu cầu của người dân đối với khu TĐC mới; mặt khác, các qui trình TĐC thiếu cơ chế giám sát độc lập trong và sau quá trình thực hiện. Đây là tình trạng chung của các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan .
    Trung bình mỗi năm, người nông dân Việt Nam phải nhường 74.000 ha đất NN để xây dựng các công trình nhà ở, đô thị và KCN. Tốc độ mất đất NN do quá trình đô thị hóa và biến đổi khí hậu hiện nay là 1% (Hảo, 2009). Một nghiên cứu của Viện Nghiên cứu định canh (thuộc Liên hiệp các Hội KH-KT Việt Nam) cho thấy, từ năm 2000 đến hết 2006, với việc mở rộng của các khu công nghiệp (KCN) và khu đô thị mới, diện tích đất trồng lúa của cả nước đã mất đi 318.400 ha (Trần Lưu, Văn Phúc, 2008). Nhiều nông dân bị mất việc làm và cuộc sống của họ sau các DA không khá hơn, nếu như không nói là tệ hơn. Nguyên nhân là sau khi nhận được bồi thường và đến nơi ở mới, người nông dân không còn những công cụ kiếm sống và kế sinh nhai khiến cuộc sống của họ không thể ổn định sau khi DA đã hoàn tất. Các kinh nghiệm cho thấy, khi tiến hành các DA cần thu hồi đất, một qui trình bồi thường và TĐC tốt là một trong những biện pháp giúp cho những người dân BAH có cuộc sống tốt hơn khi có DA.
    Ở Việt Nam, TĐC ngày càng được xem là một vấn đề quan trọng trong các DA phát triển và được xem là một phần của DA. Hiện tại, trên thế giới cũng như ở Việt Nam, rất ít các DA TĐC thành công trong việc ổn định cuộc sống người dân như phục hồi sinh kế, chưa nói đến đảm bảo sinh kế bền vững cho cộng đồng BAH (CODE, 2011). Do đó, việc phục hồi và đảm bảo sinh kế bền vững được coi là giải pháp cơ bản, nhưng cũng là vấn đề còn nhiều tồn tại và bức xúc trong các DA TĐC.
    Có thể nói chính sách về bồi thường, hỗ trợ và TĐC trong thu hồi đất ở KKT Dung Quất có ảnh hưởng sâu rộng về mặt KT-XH do ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân. Họ có nguy cơ phải rơi vào ngưỡng nghèo do không có việc làm ổn định lâu dài, trong khi các sinh kế cũ giờ không còn nữa. Hơn nữa, người dân sống ở các khu TĐC mới còn sẽ phải đối mặt với những hệ lụy do thất nghiệp như các tệ nạn xã hội và tội phạm. Số liệu điều tra về KT-XH ở các khu TĐC ở KKT Dung Quất cho thấy quá trình bồi thường, hỗ trợ và TĐC còn có nhiều bất cập, thiếu ổn định và chưa sát thực tế xét trên góc độ người thực thi và khiến cho đời sống của phần lớn người dân ở khu này rơi vào tình trạng khó khăn hơn so với trước khi có DA.
    1.2 Mục tiêu của nghiên cứu
    Việc mở rộng KKT Dung Quất lên 45.332 ha trong khi cuộc sống của người dân trong các khu TĐC vẫn chưa ổn định sẽ tạo sức ép lớn đối với việc giải tỏa mở rộng KKT Dung Quất trong tương lai. Người dân không có công việc ổn định và không thể phục hồi được thu nhập sẽ dần trở nên bần cùng hóa và sẽ là gánh nặng cho xã hội về lâu dài. Về mục tiêu chung, sự thất bại của các DA TĐC gây ra những tổn thất về kinh tế và thiếu tính công bằng trong phát triển. Việc đề xuất một qui trình TĐC hoàn chỉnh nhằm tạo tính công bằng hơn trong TĐC là rất cần thiết trong giai đoạn sắp tới.
    Mục tiêu của đề tài nhằm hoàn thiện qui trình bồi thường, hỗ trợ và TĐC ở KKT Dung Quất, Quảng Ngãi, giúp người dân bị di dời ở các khu TĐC nhanh chóng ổn định và tận dụng cơ hội cải thiện cuộc sống mới ở khu TĐC. Qui trình mới phải đạt được các tiêu chí: rút ngắn thời gian giải tỏa và TĐC; gia tăng sự tham gia của người dân và tính công bằng
    trong qui trình giải tỏa, bồi thường và hỗ trợ TĐC; phục hồi, cải thiện thu nhập và cuộc sống của người dân trong các khu TĐC.
    Cụ thể hơn, nghiên cứu sẽ đi vào các mục tiêu sau:
    - Dựa trên thực tiễn TĐC ở KKT Dung Quất, kinh nghiệm của các DA TĐC trong và ngoài nước, xem xét tính đầy đủ của quy trình đền bù, hỗ trợ và TĐC hiện nay của KKT Dung Quất Quảng Ngãi.
    - Xác định những thiếu sót và hạn chế trong qui trình hiện tại đối với việc TĐC, thông qua các mô tả về đời sống kinh tế - xã hội của người dân ở các khu TĐC.
    - Thông qua các phân tích, đề xuất những cải tiến có thể đối với qui trình đền bù, hỗ trợ và TĐC ở KKT Dung Quất, giúp giảm đến mức tối thiểu những tác động của quá trình thu hồi đất đến những người BAH, giảm thời gian đền bù và TĐC, ổn định cuộc sống và phục hồi sinh kế cho người dân bị mất đất.
    1.3 Câu hỏi nghiên cứu nghiên cứu
    Câu hỏi nghiên cứu 1: Qui trình đền bù và TĐC hiện tại ở Dung Quất (Quảng Ngãi) đã thực sự góp phần phục hồi cuộc sống của những người BAH do bị thu hồi đất hay chưa?
    Câu hỏi nghiên cứu 2: Những cải tiến nào có thể tiến hành trong qui trình TĐC tại KKT Dung Quất (Quảng Ngãi) hiện tại giúp người BAH phục hồi thu nhập và đời sống, đạt được cuộc sống tốt hơn trong dài hạn?
    1.4 Ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu
    Việc thu hồi đất để xây dựng KKT Dung Quất đã diễn ra hơn 10 năm qua, tuy nhiên, đại đa số người dân BAH, đặc biệt là những người sống trong các khu TĐC đều có cuộc sống tệ đi. Họ phải đối mặt với các nguy cơ thất nghiệp, rơi vào ngưỡng nghèo cũng như các tệ nạn xã hội xuất hiện kèm theo với thất nghiệp và đô thị hóa của khu vực này. Nghiên cứu chỉ ra tính cấp thiết của một qui trình TĐC tốt, cũng như xem xét những nhược điểm và bất cập trong qui trình giải tỏa, hỗ trợ di dời và TĐC hiện tại ở KKT Dung Quất, đưa ra những giải pháp cải thiện cho qui trình, giúp cho người dân có thể phục hồi thu nhập và cải thiện chất lượng cuộc sống. Hơn nữa, nghiên cứu diễn ra trong bối cảnh KKT Dung Quất được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt mở rộng KTT Dung Quất. Một qui trình TĐC hoàn chỉnh sẽ giúp đạt được cả hai mục tiêu: xây dựng quĩ đất giúp phát triển kinh tế, đồng thời giúp những người dân buộc phải di dời trong quá trình phát triển được chia sẻ những lợi ích về kinh tế - xã hội chung của vùng.
    1.5 Phương pháp và cấu trúc của nghiên cứu
    Nghiên cứu này được hoàn thành dựa trên phương pháp thống kê mô tả, phỏng vấn các hộ dân và các cán bộ có chuyên môn trong TĐC ở KKT Dung Quất, tham khảo các kinh nghiệm trong nước và thế giới, tham khảo các qui trình TĐC hiện tại ở Dung Quất, ADB và WB. Trước khi tiến hành nghiên cứu, tôi bắt đầu tham khảo các tài liệu chuyên môn trong khoảng thời gian từ 1990 đến 2010 về TĐC trong nước và ngoài nước (ADB, WB, Trung Quốc, Ấn Độ, ) để có một cái nhìn về bản chất và những tiến triển trong việc TĐC nói chung. Đồng thời các thông tin khác về TĐC ở Việt Nam được thu nhặt từ các bài báo có uy tín dựa vào mức độ phổ biến đối với người đọc. Một số từ khóa được sử dụng trong việc tìm kiếm tài liệu gồm “TĐC, vấn đề, involuntary resettlement, land acquisition, compensation”. Từ các tài liệu có được, tác giả tổng hợp thực trạng, các vấn đề và kinh nghiệm đối với TĐC ở Việt Nam và các vấn đề có thể gặp ở Dung Quất. Các dữ liệu thứ cấp về TĐC ở KKT Dung Quất được cung cấp bởi Hội đồng nhân dân (HĐND) và Ban quản lý KKT (BQL KKT) Dung Quất. Các dữ liệu sơ cấp gồm phỏng vấn các cán bộ làm công tác của BQL KKT Dung Quất và một số hộ dân ở các khu TĐC. Các câu hỏi mở xoay quanh các vấn đề trong quá trình thu hồi đất, giải quyết bồi thường và hỗ trợ TĐC ở KKT Dung Quất. Do thời gian có hạn và tính nhạy cảm của việc phỏng vấn, tôi chỉ có thể trực tiếp phỏng vấn một vài hộ ở khu TĐC. Tuy nhiên, các kết luận đều dựa trên số liệu phỏng vấn trước đó, ý kiến của người thực hiện và các kinh nghiệm có trước, cũng phần nào thể hiện được những vấn đề trong TĐC ở KKT Dung Quất.
    Nghiên cứu được chia làm năm phần.
    Phần 1 của nghiên cứu giới thiệu chung về bối cảnh của nghiên cứu, xác định tầm nhìn, mục tiêu và ý nghĩa thực tiễn của nghiên cứu.
    Phần 2 tổng quan về cơ sở lý thuyết của TĐC. Theo hiểu biết cá nhân, hầu như chưa có một lý thuyết hay một nghiên cứu sâu nào về các DA TĐC ở Việt Nam; vì vậy, cơ sở lý thuyết về TĐC trong nghiên cứu này được xây dựng dựa trên kinh nghiệm từ các DA TĐC ở Việt Nam và các nước khác, kết hợp với khung pháp lý hiện tại đối với đền bù, hỗ trợ và TĐC ở Việt Nam.
    Phần 3 cho thấy tổng quan về TĐC cư ở KKT Dung Quất trong 10 năm qua, sơ lược về những thành tựu và thiếu sót trong giải tỏa, đền bù và hỗ trợ, TĐC.
    Phần 4 dựa trên cơ sở lý thuyết đã được xây dựng ở phần 2 và các DA TĐC đã được thực hiện ở Việt Nam
    và các nước khác để đánh giá, đồng thời đưa ra các phát hiện đối với qui trình TĐC hiện tại dựa trên các số liệu thu thập từ các điều tra của HĐND tỉnh Quảng Ngãi và BQL KKT Dung Quất. Phần 5 đưa ra các đề xuất và gợi ý chính sách có thể giúp cải thiện qui trình đề bù, hỗ trợ và TĐC; đồng thời đưa ra các biện pháp góp phần phục hồi sinh kế cho người dân trong các khu TĐC ở KKT Dung Quất, tỉnh Quảng Ngãi.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...