Thạc Sĩ Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người là vấn đề ưu tiên hàng đầu của Đảng Cộng sản và Nhà nư

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 16/12/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỞ ĐẦU
    1. Tính cấp thiết của đề tài
    1.1. Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo quyền con người là vấn đề ưu tiên hàng
    đầu của Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam.
    Tư pháp là nhánh quyền lực quan trong trong hệ thống tổ chức quyền lực nhà nước.
    Tư pháp là lĩnh vực hoạt động nhằm đảm bảo nền an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
    đảm bảo quyền tự do của con người, do đó vấn đề CCTP luôn là ưu tiên hàng đầu trong
    quá trình hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng dân chủ, minh bạch và hiệu lực.
    CCTP là một yêu cầu hết sức quan trọng trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ
    máy nhà nước hiện nay. Không phải đến bây giờ chúng ta mới có chủ trương CCTP, tư
    pháp luôn được xem như là một bộ phận trọng tâm cần phải cải cách để hoạt động có hiệu
    lực, hiệu quả nhằm đảm bảo các quyền tự do của công dân. Nhận thức được vấn đề này,
    trong quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước, Đảng và Nhà nước luôn giành sự
    quan tâm đặc biệt đến công tác CCTP. Ngay từ khi giành được độc lập, chúng ta đã bắt tay
    vào xây dựng bộ máy tư pháp với tiêu biến bộ máy đó thành “một cơ quan trọng yếu của
    chính quyền” (Hồ Chí Minh), và chỉ sau một thời gian ngắn, bộ máy tư pháp đã được thiết lập
    trên phạm vi cả nước. Tư pháp đã giữ một vị trí quan trọng đối với thắng lợi của cách mạng
    Việt Nam, là công cụ đảm bảo trật tự, công bằng xã hội, bảo vệ quyền con người.
    Bước vào thời kỳ đổi mới, trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường, đảm
    bảo các quyền tự do, dân chủ của công dân, đòi hỏi bộ máy tư pháp phải cải cách một cách
    triệt để và đồng bộ. Nhận thực được yêu cầu này, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi trọng
    vấn đề CCTP, trong các văn kiện đại hội Đảng, vấn đề xây dựng bộ máy nhà nước, trong
    đó có CCTP được xem là một nhiệm vụ quan trọng. Hơn thế nữa, Đảng Cộng sản Việt
    Nam đã cụ thể hoá các chủ trương này thành các nghị quyết chuyên đề về hoàn thiện hệ
    thống pháp luật, cải cách tư pháp; đó là, Nghị quyết số 48-NQ/TW; ngày 24/5/2005 Về
    chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 và định
    hướng đến năm 2020, Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị Về
    một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết số 49-
    NQ/TW; ngày 02/6/2005 Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
    Nghị quyết số 49-NQ/TW Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã đặt ra
    nhiệm vụ CCTP, theo đó làm cho “các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của nhân
    dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người”1. Đây là một yêu cầu nhiệm vụ quan
    trọng trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước theo hướng NNPQ của Đảng; chính
    vì vậy việc nghiên cứu cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng CCTP để đề ra phương hướng, giải
    pháp đẩy mạnh CCTP nhằm đảm bảo các quyền con người ở nước ta trong giai đoạn từ nay
    đến năm 2020 là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn. Việc nghiên cứu này, một mặt là
    sự tổng kết, đánh giá một cách khách quan quá trình thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW, Nghị
    quyết 49-NQ/TW, mặt khác nó cung cấp luận cứ khoa học cho việc tiếp tục đẩy mạnh CCTP,
    bổ sung cương lĩnh của Đảng về xây dựng bộ máy tư pháp trong sạch, vững mạnh, nghiêm
    minh, dân chủ, bảo vệ các quyền con người.
    1.2. Cải cách tư pháp nhằm đảm bảo các quyền con người là yêu cầu quan trọng
    trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta
    Nhà nước pháp quyền (NNPQ) là một mô hình tổ chức nhà nước chống lại sự lạm
    quyền, đề cao, bảo vệ và tôn trọng các quyền con người. Quá trình xây dựng NNPQ đòi
    hỏi chính quyền phải chịu sự kiểm soát của pháp luật. NNPQ yêu cầu chính quyền phải
    chịu sự ràng buộc bởi pháp luật để bảo vệ con người, tư pháp là lĩnh vực có chức năng
    đảm bảo cho pháp luật được thực hiện và bảo vệ con người. Do đó, việc xây dựng NNPQ
    không thể tách rời với quá trình xây dựng, cải cách nền tư pháp, hướng tới một nền tư pháp
    công minh, độc lập, hiệu quả, bảo vệ các quyền con người. Chính vì vậy, để xây dựng thành
    công NNPQ ở Việt Nam, chúng ta cần phải đẩy mạnh CCTP nhằm đảm bảo tốt hơn các quyền
    con người- một giá trị không thể thiếu của NNPQ.
    Công cuộc CCTP trong bối cảnh xây dựng NNPQ đang đặt ra nhiều vấn đề cần phải
    giải quyết trên phương diện chính trị - pháp lý. Quá trình này đòi hỏi phải tôn trọng và bảo
    1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020",
    (Nghị quyết số 49-NQ/TW), xem tại: www.cpv.org.vn/tulieu/vankien/adj/%123.
    vệ các quyền tự do của con người với tính chất là các giá trị xã hội cao quí, được thừa nhận
    chung của nền văn minh nhân loại, nếu như không được bảo vệ bằng hệ thống toà án công
    minh, độc lập và chỉ tuân theo pháp luật, thì khó có thể xây dựng thành công NNPQ.
    Chính hoạt động CCTP sẽ góp phần làm cho: (1) cơ sở của quyền lực nhà nước thực sự là
    ý chí của nhân dân; (2) đảm bảo tính tối thượng của Hiến pháp và pháp luật trong tổ chức
    và hoạt động của bộ máy công quyền; (3) các quyền tự do của con người được đảm bảo
    thông qua những cơ chế pháp lý và hệ thống pháp luật.
    Xuất phát từ những bình diện đã phân tích trên cho thấy rằng việc CCTP nhằm đảm
    bảo các quyền con người ở Việt Nam là vấn đề cần được nghiên cứu một cách kỹ càng cả
    về lý luận và thực tiễn.
    1.3. Xuất phát từ hoạt động của các cơ quan tư pháp, vấn đề cải cách tư pháp
    nhằm đảm bảo các quyền con người là yêu cầu bức thiết hiện nay.
    Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị, ngày 02/6/2005 Về chiến lược cải cách tư
    pháp đến năm 2020 đã chỉ ra những hạn chế của công tác CCTP: “Chính sách hình sự, chế
    định pháp luật dân sự và pháp luật về tố tụng tư pháp còn nhiều bất cập, chậm được sửa
    đổi, bổ sung. Tổ chức bộ máy, chức năng nhiệm vụ, cơ chế hoạt động của các cơ quan tư pháp
    còn bất hợp lý Vẫn còn tình trạng oan, sai trong điều tra, bắt, giam giữ, truy tố, xét xử”1.
    Những bất cập, hạn chế đó thể hiện cụ thể trong tổ chức và hoạt động tư pháp trên các mặt sau:
    - Sự tổ chức bất hợp lý của Toà án đã dẫn tới tình trạng quá tải trong việc xét xử các
    vụ án dân sự, hình sự, kinh tế, lao động ở các thành phố lớn. Qua các số liệu thống kê về
    thực tiễn xét xử của TAND các cấp cho thấy ở một số quận thuộc các thành phố lớn hàng
    năm số lượng các vụ án cần xét xử bao gồm: hình sự, kinh tế, dân sự, lao động, hành chính
    nhiều hơn số lượng các vụ án tương ứng ở một số tỉnh. Ở các quận này, trung bình một
    Thẩm phán một năm phải xét xử tới cả trăm vụ án, trong khi ở một số Tòa án thuộc các
    tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, mỗi năm mỗi Thẩm phán chỉ xét xử dăm bảy vụ án.
    Cũng với cách tổ chức tòa án như hiện nay, các Tòa chuyên trách được tổ chức ở
    1 Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết của Bộ Chính trị "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
    2020", (Nghị quyết số 49-NQ/TW), xem tại: www.cpv.org.vn/tulieu/vankien/adj/%123
    TAND tối cao và tất cả các TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nhằm mục
    đích là chuyên môn hóa công việc của các Thẩm phán. Tuy nhiên, điều này lại đang làm
    nảy sinh một số bất hợp lý: Thứ nhất, vì ở nước ta, các vụ án hình sự (VAHS) vẫn chiếm
    một tỷ lệ cao so với các loại án khác nên các Thẩm phán của Tòa hình sự luôn luôn phải
    làm việc với cường độ cao hơn nhiều so với các Thẩm phán khác và để khắc phục tình
    trạng này, các TAND cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương lẫn Toàn phúc thẩm,
    TAND tối cao trên thực tế đều phải tăng cường Thẩm phán ở các Tòa khác sang xét xử các
    vụ án hình sự, vì vậy, mục đích chuyên môn hóa công tác xét xử của các Thẩm phán đã
    không thực hiện được; Thứ hai, việc tổ chức ra các tòa chuyên trách không được tiến hành
    đồng bộ với việc phân định thẩm quyền thụ lý hồ sơ vụ việc giữa các tòa, nên có tình trạng
    khi người dân đến nộp hồ sơ khởi kiện thì họ không biết nộp ở tòa nào vì có những trường
    hợp các tòa đều cho rằng vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của mình. Điều này có
    nghĩa là việc tồn tại các tòa chuyên trách như cách hiện nay đang gây những khó khăn cho
    người dân khi tham gia vào các quan hệ tố tụng, đây là một hiện tượng không mang tính
    pháp quyền đang diễn ra trong thực tiễn xét xử.
    Với cách tổ chức toà án như hiện nay thì nguyên tắc “khi xét xử, Thẩm phán và Hội
    thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật” còn đang có nhiều vướng mắc. Mặc dù
    được coi là một ngành dọc nhưng sự tồn tại và hoạt động của các tòa phải diễn ra và bị
    quản lý về mặt lãnh thổ của một cấp chính quyền nên luôn bị ảnh hưởng ít nhiều bởi cấp
    chính quyền tương đương.
    - Việc đổi mới hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) đối với nhiệm vụ
    kiểm sát tư pháp vẫn còn khá nhiều vấn đề chưa rõ. Nếu tính từ thời điểm tiến hành cải cách
    tổ chức và hoạt động của hệ thống VKSND theo các quy định của Hiến pháp năm 1992 sửa
    đổi và luật Tổ chức VKSND năm 2002 thì vẫn nhận thấy sự chưa rõ ràng về vị trí, thẩm quyền
    của VKSND trong các hoạt động kiểm sát, đặc biệt là về hình thức thực hiện và giới hạn của
    hoạt động kiểm sát trong lĩnh vực tư pháp về kinh tế, dân sự, lao động.
    - Những bất cập của hệ thống cơ quan tư pháp cũng bộc lộ rất rõ ở tình trạng chưa
    rõ ràng trong quan hệ trách nhiệm và cơ chế phối hợp giữa các cơ quan điều tra; ở tính phức
    tạp, chồng chéo, nhiều đầu mối và không hiệu quả của hệ thống cơ quan thi hành án; ở cơ chế
    không mấy thuận lợi cho việc thực hiện chế độ tranh tụng và phát huy vai trò của Luật sư; ở
    những hạn chế trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan quản lý tư pháp và các cơ quan bổ
    trợ tư pháp
    - Đội ngũ cán bộ tư pháp còn thiếu về số lượng, hạn chế về trình độ và năng lực
    nghiệp vụ, một bộ phận tiêu cực, thiếu trách nhiệm, thiếu bản lĩnh, sa sút về phẩm chất. Đó
    cũng là tình trạng cơ sở vật chất, điều kiện làm việc của các cơ quan tư pháp chưa đáp ứng
    được yêu cầu công tác, nhất là ở cấp huyện nhiều nơi trụ sở còn rất chật chội, phương tiện
    làm việc vừa thiếu vừa lạc hậu, chính sách đối với cán bộ tư pháp chưa tương xứng với
    nhiệm vụ và chức trách được giao.
    Thực trạng trên cho thấy, mặc dù đã có những nỗ lực rất lớn nhưng mô hình tổ chức
    và hoạt động hiện nay vẫn đang hạn chế đáng kể hiệu quả của hoạt động tư pháp. Trong
    bối cảnh xây dựng NNPQ XHCN đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh CCTP nhằm
    mục tiêu đảm bảo một cách tốt nhất các quyền con người.
    Từ những luận giải trên cho thấy, CCTP nhằm đảm bảo các quyền con người cần
    phải được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện cả về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn.
    Đây là một việc làm hết sức cấp bách và cần thiết, đòi hỏi chúng ta phải có sự nghiên cứu
    đầy đủ về vấn đề này, qua đó cung cấp luận cứ khoa học cho việc đẩy mạnh cải cách tư pháp,
    đưa ra những phương hướng và giải pháp đẩy mạnh hoạt động CCTP nhằm đảm bảo quyền
    con người trong giai đoạn hiện nay.
    2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
    2.1. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
    Kể từ khi xuất hiện xã hội giai cấp, ý tưởng và mong muốn về một xã hội tự do,
    bình đẳng, được bảo vệ và tôn trọng các quyền con người luôn là ước mơ cháy bỏng của
    nhân loại. Những ý tưởng này, thoạt nhiên ban đầu chưa được thể chế hoá thành luật pháp,
    nó chỉ tồn tại trong văn học thành văn và truyền miệng, hay trong các triết lý tôn giáo.
    Khởi đầu của sự phân chia giai cấp là sự ra đời của xã hội chiếm hữu nô lệ và Nhà nước
    chiếm hữu nô lệ, với bản chất giai cấp là công cụ duy trì sự thống trị, đàn áp của giai cấp
    chủ nô đối với nô lệ. Nô lệ, khi ấy hoàn toàn không được coi là con người, chỉ là “công cụ
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...