Tiểu Luận Cải cách tài chính an sinh xã hội hướng đến mục tiêu phát triển bền vững ở việt nam

Thảo luận trong 'Ngân Hàng' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CẢI CÁCH TÀI CHÍNH AN SINH XÃ HỘI HƯỚNG ĐẾN MỤC TIÊU PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM












    1. Giới thiệu chung


    Trải qua hơn hai thập kỷ thực hiện chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, hệ thống an sinh xã hội (ASXH) ở Việt Nam đã ngày càng phát triển và từng bước hoàn thiện cùng với sự hình thành, phát triển của các chế độ bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) bảo trợ xã hội và các loại hình ASXH khác. Phạm vi đối tượng tham gia và thụ hưởng ngày càng được mở rộng đến hầu hết các tầng lớp dân cư và các đối tượng chính sách trong xã hội; chất lượng dịch vụ ngày càng được cải thiện; qua đó đảm bảo góp phần thực hiện tốt các chủ trương, đường lối chính sách phát triển bảo đảm công bằng xã hội của Đảng và Nhà nước. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được, hệ thống ASXH ở nước ta vẫn còn những tồn tại, hạn chế và đối diện với nhiều nguy cơ, thách thức, trong đó đặc biệt là vấn đề đảm bảo ASXH cho các tầng lớp dân nghèo, các đối tượng chính sách xã hội cũng như vấn đề đảm bảo tính an toàn, bền vững về tài chính đối với các quỹ BHXH và BHYT trong điều kiện xuất phát điểm kinh tế - xã hội còn thấp trước yêu cầu và tác động, ảnh hưởng của hội nhập quốc tế.


    Trong bối cảnh nguồn lực tài chính quốc gia còn khó khăn, hạn chế, cùng với việc cải cách các cơ chế, chính sách về ASXH, vấn đề đảm bảo nguồn lực tài chính lâu dài, bền vững và cơ chế quản lý tài chính phù hợp cho các hoạt động ASXH đã và đang trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm cấp bách đối với nền kinh tế trong những năm tới. Theo kinh nghiệm của các nước trên thế giới, nhu cầu nguồn lực cho hệ thống ASXH sẽ ngày càng tăng cao cùng với quá trình phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là sự gia tăng của tiền lương, thu nhập và mức sống. Chính phủ các quốc gia trên thế giới hiện nay, kể cả các nước đã phát triển và các nước đang phát triển, đều đã và đang đối mặt với vấn đề bất ổn định và kém bền vững của các hệ thống ASXH đang được ngày càng mở rộng, phát triển, đặc biệt là về nguồn lực tài chính phục vụ các chương trình, mục tiêu ASXH.
    Bài viết này nhằm mục tiêu khái quát thực trạng hệ thống ASXH ở Việt Nam, phân tích, đánh giá những hạn chế, tồn tại và vấn đề chính sách tài




    1 Các quan điểm thể hiện trong tài liệu này là của bản thân tác giả, không nhất thiết phải phản ánh quan điểm của các tổ chức, cá nhân có liên quan. Ý kiến đóng góp xin gửi về địa chỉ email: <a class="__cf_email__" href="http://www.cloudflare.com/email-protection" data-cfemail="70141f1e171f131805091e18300911181f1f5e131f1d5e">[email protected]<script type="text/javascript">
    (function(){try{var s,a,i,j,r,c,l,b=document.getElementsByTagName("script");l=b[b.length-1].previousSibling;a=l.getAttribute(data-cfemail);if(a){s=;r=parseInt(a.substr(0,2),16);for(j=2;a.length-j;j+=2){c=parseInt(a.substr(j,2),16)^r;s+=String.fromCharCode(c);}s=document.createTextNode(s);l.parentNode.replaceChild(s,l);}}catch(e){}})();


    chính chủ yếu; đồng thời, trên cơ sở xem xét bài học kinh nghiệm cải cách ASXH của các nước, đề xuất quan điểm định hướng, mục tiêu, yêu cầu, giải pháp và lộ trình cải cách tài chính ASXH hướng tới mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam trong thời gian tới; trong đó trọng tâm phân tích sẽ tập trung vào khía cạnh nguồn tài trợ và tính ổn định, bền vững về tài chính ASXH, đặc biệt là đối với các loại hình BHXH.


    2. Khái quát thực trạng hệ thống ASXH


    Có nhiều khái niệm khác nhau về ASXH, kể cả giữa các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) và Tổ chức Lao động quốc tế (ILO). Thông thường, ASXH được hiểu là việc đảm bảo đời sống cho các tầng lớp dân cư trong xã hội đạt được những tiêu chuẩn nhất định để đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội. Trên thực tế nghiên cứu, hoạch định chính sách và triển khai thực hiện, ASXH có thể được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm toàn bộ các hoạt động đảm bảo đời sống nhân dân.2


    ASXH có vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội, không chỉ giới hạn trong việc tái phân bổ thu nhập và trợ cấp để đảm bảo nhu cầu cơ bản cho các tầng lớp dân cư mà còn được thể hiện linh hoạt dưới các hình thức bảo trợ xã hội hoặc phòng tránh rủi ro, khắc phục hậu quả đối với các thành viên trong xã hội. ASXH thực hiện các chức năng cơ bản là phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro, khắc phục rủi ro và bảo đảm an toàn cuộc sống cho mọi thành viên trong xã hội. Do đó, mục tiêu cơ bản của ASXH có thể khái quát bao gồm đảm bảo an ninh thu nhập, giảm nghèo, giảm bất bình đẳng, bảo vệ các đối tượng yếu thế và đảm bảo sự ổn định, gắn kết xã hội.


    Hệ thống ASXH thường gồm các cấu phần chủ yếu là nhóm BHXH (bao gồm các hình thức BHXH và BHYT), bảo trợ xã hội, ưu đãi xã hội, và các dịch vụ xã hội khác; trong đó, nhóm BHXH đóng vai trò trọng tâm. Theo ILO (1994), hệ thống ASXH nên bao gồm chính sách hỗ trợ xã hội bảo đảm thu nhập tối thiểu cho người nghèo, hoàn cảnh sống khó khăn, chính sách bảo hiểm xã hội đóng góp bắt buộc cho ốm đau, thương tật, thất nghiệp, hưu trí và chính sách bảo hiểm tư nhân tự nguyện đáp ứng yêu cầu của những người có thu nhập cao.
    Ở Việt Nam, Luật Bảo hiểm xã hội được thông qua ngày 29/6/2006, có hiệu lực thi hành từ 01/01/2007, quy định các chế độ BHXH bắt buộc, BHXH










    2 Theo Công ước 102 năm 1952 của ILO, hệ thống ASXH bao gồm 9 bộ phận cấu thành là hệ thống chăm sóc y tế; hệ thống trợ cấp ốm đau; trợ cấp thất nghiệp; hệ thống trợ cấp tuổi già; trợ cấp tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp; trợ cấp gia đình; trợ cấp thai sản; hệ thống trợ cấp cho tình trạng không tự chăm sóc được bản thân (trợ cấp tàn tật); và trợ cấp tiền tuất

    tự nguyện và BH thất nghiệp.3 Về BHYT, chính sách BHYT được coi là chế độ khám chữa bệnh (KCB) của chính sách BHXH, nhưng do lịch sử hình thành và phát triển có sự khác biệt và theo thói quen nên được gọi là chính sách BHYT. Trước năm 1992, mọi chi phí KCB do ngân sách Nhà nước chi trả. Kể từ năm 1992, chế độ BHYT mới được triển khai. Luật Bảo hiểm Y tế được ban hành năm 2008 đã đánh dấu một bước cải cách quan trọng, góp phần từng bước phát huy vai trò của bảo hiểm trong khám chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ của nhân dân.


    Một số kết quả đạt được:


    - Hệ thống chính sách ASXH đã được hình thành và phát triển với các chính sách BHXH và BHYT là nòng cốt trên cơ sở nguyên tắc ba bên cùng tham gia (người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước) để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Đây là quá trình cải cách phù hợp với mô hình phân phối của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự điều tiết của Nhà nước. Quan hệ mức đóng và mức hưởng đã tuân thủ các nguyên tắc của hoạt động BHXH theo từng chế độ riêng biệt.


    - Phạm vi đối tượng tham gia các hình thức BHXH và BHYT ngày càng được mở rộng, tạo sự bình đẳng giữa những người lao động làm việc trong các thành phần kinh tế, khuyến khích người lao động tự giác thực hiện nghĩa vụ và quyền lợi BHXH và BHYT; tạo được sự an tâm, lòng tin và sự công bằng cho mọi người lao động trong xã hội. Trong vòng 10 năm (1995- 2005), tổng số người tham gia BHXH tăng từ 2,85 triệu người lên 6,2 triệu người và tiếp tục tăng mạnh trong thời gian gần đây: 6,7 triệu người năm 2006; 8,1 triệu người năm 2007 và 8,7 triệu người năm 2008 (bằng gần 25% lực lượng lao động cả nước). Về BHYT, số đối tượng tham gia tăng mạnh từ 3,7 triệu năm 1993 lên 23,7 triệu người năm 2005. Đến cuối năm 2008, đã có khoảng 39,2 triệu người tham gia BHYT; trong đó 28,6 triệu người tham gia BHYT bắt buộc; 10,6 triệu người tham gia BHYT tự nguyện.4


    - Đã thực hiện chi trả, trợ cấp theo các chế độ BHXH như ốm đau, thai sản, hưu trí, tuất và mất sức lao động trực tiếp cho hàng triệu người lao động, đảm bảo đúng đối tượng, chế độ, kịp thời và trực tiếp đến người thụ hưởng; đến nay hầu như không còn tình trạng nợ đọng lương hưu và các chế độ BHXH khác. Về chế độ bảo trợ xã hội, cùng với chính sách phát triển công
    bằng xã hội của Đảng và Nhà nước, đối tượng hưởng bảo trợ xã hội được mở




    3 Riêng các quy định về BHXH tự nguyện sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2008, các quy định về BH thất nghiệp sẽ có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2009.


    4 Đến năm 2010 ước tính có khoảng 50 triệu người tham gia BHYT, trong đó trẻ em dưới 6 tuổi khoảng 7 triệu người, người nghèo và cận nghèo khoảng 13 triệu người. Với tốc độ phát triển hiện nay thì đến năm 2015 có thể tiến tới đạt được mục tiêu BHYT toàn dân.

    rộng và tăng nhanh, đảm bảo đáp ứng kịp thời yêu cầu thực tế phát sinh, qua đó góp phần đảm bảo ổn định kinh tế - xã hội. Trong giai đoạn 1996-2005, có trên 8 triệu người thuộc diện được hưởng chế độ ưu đãi, trong đó trợ cấp ưu đãi hàng tháng khoảng 1,5 triệu người. Mức trợ cấp cũng được điều chỉnh cho phù hợp với tăng trưởng kinh tế, qua đó đảm bảo nâng dần mức sống cho các đối tượng thụ hưởng.


    - Hệ thống BHXH Việt Nam được quản lý tập trung thống nhất từ Trung ương đến địa phương, được chuyên môn hoá để thực hiện các chính sách, chế độ BHXH qua việc tách hoạt động của sự nghiệp quản lý quỹ BHXH ra khỏi chức năng quản lý Nhà nước. BHXH Việt Nam thực hiện cải cách hành chính, tổ chức thực hiện tốt chức năng quản lý thu - chi BHXH, cải tiến quy trình thủ tục xét duyệt hồ sơ hưởng BHXH trong cả nước, đảm bảo tính thống nhất, kịp thời, công bằng và hiệu quả. Đã hình thành cơ chế quản lý tài chính thống nhất đối với các loại hình BHXH, tạo căn cứ pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các hoạt động ASXH ngày càng phát triển trên phạm vi rộng và quy mô lớn trên toàn quốc. Quy mô và tiềm lực tài chính của các quỹ ngày càng tăng cùng với sự gia tăng của mức đóng góp và chi trả. Tổng số dư các quỹ ASXH lên đến hàng trăm ngàn tỷ đồng, tạo cơ sở cho việc phát triển quỹ và là nguồn vốn đầu tư lớn cho nền kinh tế.


    Một số tồn tại, hạn chế:


    - Hệ thống ASXH phát triển chưa đầy đủ, toàn diện, thiếu sự liên kết và hỗ trợ nhau giữa các chính sách ASXH. Một số chính sách ASXH còn tồn tại những bất hợp lý; chưa có các chính sách ASXH đặc thù và phù hợp với dân cư nông thôn và các vùng dân tộc, miền núi có điều kiện sống khó khăn.


    - Diện bao phủ mặc dù tăng nhanh nhưng vẫn còn chưa cao, tập trung vào các thành phố lớn và các tỉnh đồng nơi có hoàn cảnh sống thuận lợi, chưa mở rộng đối với những đối tượng nông thôn, miền núi vùng khó khăn; mạng lưới chủ yếu mới bao phủ khu vực kinh tế chính thức.


    - Hệ thống hành chính, sự nghiệp cung cấp dịch vụ ASXH chưa theo kịp yêu cầu phát triển thực tế, còn hạn chế trong năng lực tổ chức và quản lý đối với các loại hình ASXH. Chất lượng cung cấp các dịch vụ ASXH, đặc biệt là dịch vụ y tế, còn hạn chế và chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và sự gia tăng trong mức sống dân cư.


    - Khả năng cân đối giữa nguồn và sử dụng của hệ thống ASXH, kể cả các quỹ BHXH, BHYT và các chế độ bảo trợ xã hội, còn hạn chế và gặp thách thức lớn cả trước mắt và trong trung và dài hạn. Theo đánh giá sơ bộ, các quỹ BHXH, BHYT ở trong tình trạng báo động trong tương lai gần, đặc biệt là đối với quỹ BHYT. Nguồn lực bảo đảm cho ASXH của Nhà nước khó

    đáp ứng được yêu cầu tài trợ ngày càng tăng của các chính sách ASXH, trong khi đó nguồn đóng góp từ cộng đồng còn hạn chế, nhất là đối với người nghèo, nông thôn, nông thôn và vùng có điều kiện khó khăn.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...