Luận Văn Cải cách giáo dục ở Nhật Bản dưới thời Minh Trị ( 1868 - 1912 )

Thảo luận trong 'Lịch Sử' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    170
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Chương 1
    KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG CUỘC CẢI CÁCH Ở NHẬT BẢN ( 1868- 1912)
    1.1. Những tiền đề của cuộc cải cách
    1.1.1. Tiền đề về kinh tế
    Vào giữa thế kỷ XIX, chế độ phong kiến Nhật Bản Tokugawa sau mấy thế kỷ thống trị đã rơi vào tình trạng bế tắc, suy thoái, không thể nào đáp ứng được sự phát triển, không đủ sức chống lại sự xâm nhập của đế quốc Âu – Mỹ.
    Nông nghiệp: Đến giữa thế kỷ XIX, Nhật Bản vẫn là một nước nông nghiệp với mối quan hệ sản xuất phong kiến lạc hậu. Nền nông nghiệp dựa trên quan hệ phong kiến, quyền sở hữu đất đai thuộc về nhà nước phong kiến, tình trạng cát cứ không phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất hàng hóa. Pháp luật không công nhận nông dân Nhật có quyền chiếm hữu đất đai, mặc dầu họ được canh tác trên những mảnh đất cha truyền con nối. Việc mua bán đất bị cấm rất nghiêm, nhưng trong thực tế việc gán đất đã xảy ra đến quy mô lớn. Vì thiên tai mất mùa hoặc do bệnh tật trong các gia đình nông dân, họ không đủ sức nạp nghĩa vụ tô thuế, lao dịch nên phải gán đất cho nhà giàu ở nông thôn hay chủ buôn bán, người cho vay nặng lãi ở thành thị. Về hình thức người nông dân vẫn giữ đất của mình và tiếp tục cày cấy, nhưng thực ra họ đã trở thành tá điền, không chỉ nộp thuế cho Daimyô – những quý tộc phong kiến lớn, mà còn phải nộp tô điền hay tô hiện vật cho chủ nợ. Người phú nông chủ nợ có quyền sở hữu đất đai, thực tế được gọi là Dzinusi tức là địa chủ.
    Ở Nhật Bản lúc bấy giờ còn khuyến khích khai hoang và dành cho chủ đất nhiều quyền lợi, được miễn thuế trong thời gian nhất định. Sắc lệnh khẩn hoang năm 1721 đã tạo điều kiện cho các thương gia vay lãi ở thành thị xuất vốn tham gia khai khẩn đất hoang. Như vậy, độc quyền chiếm hữu đất đai của quý tộc bị phá vỡ ở một mức độ đáng kể. Bên cạnh, những lãnh chúa phong kiến truyền thống đã xuất hiện giai cấp địa chủ Dzinusi gồm phú nông và các nhà buôn cho vay nặng lãi.
    Sự phát triển của các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, hiện tượng chiếm hữu đất đai kinh doanh và việc hình thành những quan hệ mới đã làm thay đổi các quan hệ trong nông nghiệp.
    Một hiện tượng mới ở nông thôn là sự xuất hiện chế độ làm thuê năm, thuê tháng và thuê công nhật. Tuy ở Nhật Bản việc nông dân ra khỏi lãnh địa đi làm thuê đều bị bắt trả về cho lãnh chúa, nhưng hiện tượng trốn khỏi lãnh địa vẫn xảy ra không gì ngăn nổi. Nông dân đi kiếm việc làm ở thị trấn và những vùng thiếu lao động. Vì, lúc này phần lớn diện tích ruộng đất ở nông thôn đã chuyển sang trồng cây công nghiệp như: bông, dâu, chè, thuốc lá . Vào nửa đầu thế kỷ XIX, diện tích trồng dâu, bông ở quanh một số thành phố lớn đã vượt quá diện tích trồng lúa. Thời gian này chính quyền Shôgun thu thuế bằng tiền thay cho hiện vật.
    Vào đầu thế kỉ XIX, những dấu hiệu khủng hoảng của nền kinh tế tự nhiên ngày càng lộ rõ. Tình trạng mất mùa, đói kém, ôn dịch liên tiếp xảy ra. Trong 50 năm từ 1790 – 1840 theo tài liệu thống kê đầy đủ, nước Nhật có 22 lần mất mùa, nạn đói bao trùm một phần khá lớn đất nước. Trước tình hình đó yêu cầu đặt ra cho chính phủ là phải tiến hành cải cách để cải thiện tình hình kinh tế của đất nước, nâng cao đời sống cho nhân dân.
    Công thương nghiệp: vào đầu thế kỉ XVIII, đặc biệt là thế kỉ XIX, công thương nghiệp phát triển mạnh mẽ và tác động trở lại đối với xã hội. Tổ chức sản xuất thủ công nghiệp truyền thống là các phường hội ở thành thị, lao động tại nhà của nông dân. Các công trường thủ công và phường hội đầu tiên xuất hiện ở các công quốc vào những năm 20 của thế kỉ XVIII. Chính quyền đã giao cho phường hội độc quyền sản xuất kinh doanh một thứ hàng hoá và phải nộp cho nhà nước một khoản nghĩa vụ bằng tiền.
    Công trường thủ công phân tán khá phổ biến đem lại hiệu quả cho nền sản xuất kinh doanh. Nông dân thường nhận nguyên liệu từ những chủ kinh doanh, sản xuất tại nhà và giao hàng cho chủ theo định kì. Sản phẩm của họ làm đều thuộc về chủ. Cũng có nhiều nơi thực tế nông dân lĩnh lương của nhà buôn. Ở miền Trung Nhật Bản trên đảo Hoooonsshu trong các ngành tơ, lụa, kéo sợi, dệt vải, công nghiệp tại gia phát triển nhanh chóng. Mỗi khu vực trong nước chuyên môn sản xuất một mặt hàng nào đấy. Sự tiêu thụ ngày càng tăng về vải lụa vào đầu thế kỉ XVIII cho phép xuất hiện nhiều công trường thủ công dệt. Ở miền Nam trong công quốc Satsuma ngành sản xuất tơ lụa có nhiều xí nghiệp thuê từ 20 đến 30 công nhân.
    Vào nửa sau thế kỉ XVIII công trường thủ công sản xuất lụa vải xuất hiện ở nhiều tỉnh, có đến 100 công trường do phong kiến tổ chức quản lí. Trong những năm 50 – 60 đã xuất hiện công nghiệp luyện thép và những công xưởng đóng tàu ở các công quốc phía Tây Nam.
    Đến giữa thế kỉ XIX, số công trường thủ công lên tới hàng trăm nhưng công nghiệp chế tạo vẫn chưa ra đời. Tỉ lệ sản phẩm công nghiệp Nhật so với thế giới không đáng kể, ngành đúc đồng khoảng 6% và ngành sản xuất tơ lụa cũng chỉ mới chiếm 10% (năm 1867).
    Tuy công nghiệp Nhật Bản có những bước phát triển nhưng gặp nhiều khó khăn. Tính biệt lập của các công quốc làm xuất hiện hàng rào quan thuế và đủ thứ hạn chế của chính phủ, đặc biệt là công việc cấm nông dân không được bỏ đất chạy ra thành thị.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...