Tiểu Luận Cải cách chính sách thuế ở Việt Nam

Thảo luận trong 'Tài Chính Thuế' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    LỜI MỞ ĐẦU
    —–



    Đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, thuế đóng vai trò là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều tiết sản xuất kinh doanh cũng như phân phối tiêu dùng, thúc đẩy kinh tế phát triển. Thuế là nguồn thu chủ yếu trong ngân sách nhà nước, bảo đảm sự tồn tại cho bộ máy chính trị quốc gia, và là nguồn tài chính không thể thiếu cho các chính sách đầu tư công, phát triển cơ sở vật chất hạ tầng phục vụ cho các hoạt động kinh tế, và đảm bảo cho đời sống an sinh xã hội.

    Có được một hệ thống chính sách thuế phù hợp, đồng bộ, hoàn thiện và luôn theo kịp sự vận động phát triển của thực tiễn là điều kiện cần thiết và cấp bách. Chính sách thuế không những phải phù hợp với tình hình và định hướng phát triển của quốc gia, mà còn phải phù hợp với các thông lệ, chuẩn mực quốc tế, đặc biệt trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng như hiện nay.
    Bởi vậy một tất yếu đó là, chính sách thuế của Việt Nam phải không ngừng được cải cách, kiện toàn, trở thành công cụ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, ổn định chính trị, thực hiện công bằng xã hội, và phân bổ hiệu quả các nguồn lực, vì mục tiêu phát triển bền vững.
    Bài tiểu luận “Cải cách chính sách thuế ở Việt Nam” đưa ra những tìm hiểu cơ bản về thực trạng cải cách chính sách thuế ở Việt Nam từ trước đến nay và kiến nghị một số giải pháp nhằm cải cách, nâng cao hiệu quả chính sách thuế ở Việt Nam.








    Chương I:
    CƠ SỞ LÝ LUẬN
    1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ:
    1.1. Khái niệm:
    Thuế là một khoản nộp bắt buộc mà các cá nhân và tổ chức có nghĩa vụ phải thực hiện đối với Nhà nước, phát sinh trên cơ sở các văn bản pháp luật do Nhà nước ban hành, không mang tính chất đối giá và hoàn trả trực tiếp cho đối tượng nộp thuế.
    1.2. Đặc điểm:
    1.2.1. Thuế luôn gắn liền với quyền lực của Nhà nước
    Có thể nói, đánh thuế là một đặc quyền của Nhà nước, đặc quyền này được quy định bằng luật pháp. Chẳng hạn, chương II – CHẾ ĐỘ KINH TẾ, Điều 22 của Hiến Pháp nước ta quy định: “Các cơ sở sản xuất kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước, ”; “Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao động công ích theo quy định của pháp luật”.
    1.2.2. Thuế là một phần thu nhập của các tầng lớp dân cư bắt buộc nộp cho Nhà nước
    Nhà nước sử dụng quyền lực chính trị buộc người nộp thuế phải chuyển giao một phần thu nhập cho Nhà nước thông qua quy định pháp luật về thuế.
    1.2.3. Thuế là hình thức chuyển giao thu nhập không mang tính chất hoàn trả trực tiếp
    Một đặc điểm dễ nhận thấy là thuế không mang tính đối giá. Nghĩa là không có sự chuyển giao hàng hóa – dịch vụ giữa đối tượng nộp thuế và Nhà nước. Lợi ích của đối tượng nộp thuế có được từ việc Nhà nước thông qua việc chi tiêu của Chính phủ như: chi đầu tư cơ sở hạ tầng (điện, đường, trường, ) hay thông qua các chính sách hỗ trợ từ Nhà nước;
    1.3. Phân loại thuế:
    1.3.1. Căn cứ vào tính chất
    a) Thuế trực thu:
    - Thuế gián thu là loại thuế mà người trực tiếp nộp thuế không phải là người chịu thuế. Nó là yếu tố cấu thành trong giá mua hàng hoá và dịch vụ, nhằm động viên sự đóng góp của người tiêu dùng. Như vậy, người nộp thuế thực chất là người nộp hộ cho người mua hàng hoá và dịch vụ.
    - Ví dụ: Thuế Giá trị gia tăng (VAT); Thuế tiêu thụ đặc biệt; Thuế xuất nhập khẩu;
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...