Tài liệu Cải cách chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp theo nguyên tắc tôn trọng qu

Thảo luận trong 'Hành Chính' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Cải cách chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến pháp


    theo nguyên tắc tôn trọng quyền con người




    1. Triết lý về nguồn gốc quyền con người




    Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa bằng lời bất hủ của bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.


    Năm 1957, trong tác phẩm nổi tiếng “Atlas nhún vai” (Atlas Shrugged) của mình, nhà văn nổi tiếng người Mỹ Ayn Rand, kế thừa tư tưởng từ bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ, cũng khẳng định quan điểm về quyền con người vốn dĩ thuộc về con người mà không phải do thần thánh hay nhà nước ban cho. “Nguồn gốc của quyền con người không phải là luật thần thánh hay luật Quốc hội ban hành, mà là luật đồng nhất. A là A, và Con Người là Con Người. Quyền là điều kiện mà bản chất con người đòi hỏi để có thể tồn tại một cách thích đáng. Ngay khi xuất hiện trên trái đất, mỗi cá nhân đều có quyền sử dụng trí tuệ của mình, làm việc vì các giá trị của mình và giữ lấy sản phẩm do mình tạo ra. Nếu cuộc sống trên trái đất là mục đích thì con người có quyền sống như một thực thể có lý trí: tự nhiên không cho phép con người phi lý trí”1.


    Ayn Rand cũng đã nói rằng “Tất cả các chế độ trước đó đều coi con người như phương tiện hiến dâng cho mục đích của những người khác, và coi xã hội là mục đích của chính nó. Nước Mỹ thì coi mỗi con người là mục đích của chính mình, còn xã hội như phương tiện để đi đến một sự đồng tồn tại hòa bình, có trật tự, tự nguyện giữa các cá nhân. Tất cả các chế độ trước đó đều cho rằng đời sống của cá nhân thuộc về xã hội, xã hội có thể loại bỏ cá nhân theo bất kỳ cách nào nó muốn; tự do mà cá nhân được hưởng chỉ là nhờ sự ban ơn, sự cho phép của xã hội, và tự

    do ấy có thể bị rút lại bất cứ lúc nào. Mỹ cho rằng đời sống của mỗi con người thuộc về chính cá nhân đó, do quyền của cá nhân đó mang lại (nghĩa là: do nguyên tắc đạo đức và do chính bản chất con người của cá nhân mang lại), rằng quyền là tài sản thuộc sở hữu của mỗi cá nhân, xã hội do đó không có quyền gì, và mục đích đạo đức duy nhất của nhà nước là bảo vệ các quyền cá nhân Tuyên ngôn nhân quyền được viết ra không phải là để bảo vệ người ta trước các hành động của tư nhân, mà là để chống các hành động của chính phủ”2.


    Cũng xuất phát từ triết lý đó, Tuyên ngôn thế giới về Quyền con người 1948 đã long trọng tuyên bố: “Điều 1: Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm, cũng như quyền lợi. Mọi người đều được phú bẩm về lý trí và lương tâm. Sự đối xử giữa con người với nhau phải được trên tinh thần bác ái. Điều 2: Mọi người đều được hưởng tất cả những quyền và tự do công bố trong Bản Tuyên ngôn này và không có một sự phân biệt nào, như chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, quan điểm chính trị hay tất cả quan điểm khác, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội, tài sản, nơi sinh, hay tất cả những hoàn cảnh khác. Hơn nữa, cũng không được có sự phân biệt nào đối với con người sống trên một quốc gia hay trên một lãnh thổ, căn cứ trên cơ chế chính trị, nền tảng luật pháp hay quy chế quốc tế của quốc gia hay lãnh thổ đó. Cho dù quốc gia hay lãnh thổ này độc lập hay dưới sự bảo hộ, không được tự trị hay ở trong tình trạng bị hạn chế về chủ quyền”.




    2. Quyền con người và hiến pháp




    Về mối quan hệ giữa nhân quyền và hiến pháp, GS. Hoàng Văn Hảo viết: “Chính vai trò giá trị của quyền con người, quyền công dân mà trong tư duy chính trị của nhân loại, vấn đề quyền con người, quyền công dân trở thành một nội dung chính của lịch sử lập hiến. Luật về các quyền của Anh sau Cách mạng 1689, Tuyên ngôn độc lập và Hiến pháp của Mỹ, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp, hiến pháp của tất cả các nước, dù ở chế độ xã hội nào (tư bản, xã hội

    chủ nghĩa, các nước đang phát triển) đều có chế định quyền con người, quyền công dân. Đó là nội dung cơ bản nhất của mỗi hiến pháp, nội dung quan trọng đến mức nếu không có chế định quyền con người, quyền công dân, thì cũng không thể có bản thân hiến pháp, nội dung đó chi phối kết cấu của bản hiến pháp, chế định quyền công dân thường được đặt lên hàng đầu trong hiến pháp của nhiều nước”3.


    Trên thế giới có ba cách quy định về quyền con người trong hiến pháp:




    Cách thứ nhất là quyền con người được quy định trong một văn bản riêng gọi là bản Tuyên ngôn nhân quyền của các nhà nước tư bản phát triển, như Tuyên ngôn nhân quyền năm 1689 của Anh và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1789. Mặc dù các tuyên ngôn này không được nằm trong nội dung chính của bản văn hiến pháp, nhưng chúng đều được thừa nhận là một phần của nội dung hiến pháp. Tuyên ngôn nhân quyền của Anh là một nguồn quan trọng của hiến pháp bất thành văn của Anh quốc. Lời mở đầu của Hiến pháp năm 1958 hiện hành của Pháp trịnh trọng tuyên bố: “Nhân dân Pháp trung thành với bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1789”. Điều đó có nghĩa bản tuyên ngôn này như là một nội dung chính của hiến pháp.


    Cách thứ hai, nhân quyền được quy định thành chương, điều trong nội dung của hiến pháp. Ví dụ: Chương 5 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Chương 2 của Hiến pháp Trung Quốc về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; Chương 2 của Hiến pháp Nga về các quyền và tự do của con người và công dân.


    Cách thứ ba, nhân quyền không được quy định thành bản Tuyên ngôn riêng rẽ, mà cũng không nằm trong nội dung chính của hiến pháp, mà nằm trong bản phụ trương của hiến pháp, như 10 Tu chính án của Hiến pháp Mỹ.


    Dù quy định theo cách nào, các quốc gia đều coi quyền con người là nội dung


    quan trọng của hiến pháp.

    3. Quyền con người trong Hiến pháp Việt Nam năm 1992: một số định hướng cải cách mang tính nguyên tắc


    3.1. Cải cách việc ghi nhận các quyền con người cơ bản trong Hiến pháp


    Việt Nam




    Cải cách cách quy định nhân quyền và quyền con trong Hiến pháp Việt Nam đang là một trong những nhiệm vụ cấp bách chuẩn bị cho công cuộc sửa đổi Hiến pháp sắp tới. Muốn vậy đòi hỏi phải rà soát lại các cách thức quy định hiện hành về quyền con người và quyền công dân trong Hiến pháp.


    Cũng như các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp Việt Nam hiện hành dành riêng Chương V quy định về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Và cũng như nhiều nước trên thế giới, quyền công dân Việt Nam xuất phát từ quyền con người:


    “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật” (Điều 50).


    Quy định này của Hiến pháp thể chế hóa quan điểm của Đảng “quyền công dân, quyền con người và tự do cá nhân được bảo đảm bằng pháp luật, được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật và chỉ bị ràng buộc bởi pháp luật”4.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...