Tiến Sĩ Cái bi trong hệ thống phạm trù mĩ học, biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của nó

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 12/8/16.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MỤC LỤC
    Trang
    MỞ ĐẦU . 1
    Chương 1. TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
    ĐỀ TÀI 6
    1.1. Tình hình nghiên cứu về cái bi và mối quan hệ giữa cái bi với những phạm trù khác
    trong hệ thống phạm trù mĩ học . 6
    1.2. Tình hình nghiên cứu về biểu hiện của cái bi trong đời sống và trong văn học
    Việt Nam (sau năm 1975) 14
    1.3. Tình hình nghiên cứu về giá trị thẩm mĩ của cái bi . 21
    1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu và một số vấn đề đặt ra đối với luận án 23
    Chương 2. CÁI BI TRONG HỆ THỐNG PHẠM TRÙ MĨ HỌC 25
    2.1. Bản chất và nội dung của cái bi 25
    2.2. Mối quan hệ giữa cái bi với những phạm trù mĩ học khác trong hệ thống . 55
    Chương 3. BIỂU HIỆN CỦA CÁI BI TRONG ĐỜI SỐNG VÀ TRONG VĂN HỌC
    NGHỆ THUẬT 68
    3.1. Phương thức biểu hiện của cái bi trong đời sống và trong nghệ thuật . 68
    3.2. Biểu hiện của cái bi trong đời sống xã hội Việt Nam (sau năm 1975) . 71
    3.3. Biểu hiện của cái bi trong văn học Việt Nam (sau năm 1975) . 85
    Chương 4. GIÁ TRỊ THẨM MĨ CỦA CÁI BI 113
    4.1. Giá trị thẩm mĩ của cái bi đối với sự phát triển của con người và xã hội . 113
    4.2. Giá trị của sự phản ánh cái bi đối với văn học nghệ thuật 132
    KẾT LUẬN . 148
    DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ

    1
    MỞ ĐẦU

    1. Tính cấp thiết của đề tài
    Tình yêu cổ xưa nhất và cũng vĩ đại nhất của con người chính là tình yêu cuộc
    sống, yêu cái đẹp. Khát vọng chân chính của con người là vươn tới cuộc sống tốt đẹp.
    Nhưng vốn dĩ hành trình kiếm tìm hạnh phúc đi đến cuộc sống nhân văn là một cuộc đấu
    tranh lâu dài và gian khổ mà không phải lúc nào chiến thắng cũng thuộc về những điều tốt
    đẹp chân chính. Thực tế lịch sử loài người đã chứng minh cho tính biện chứng của sự phát
    triển thông qua quá trình không ngừng giải quyết những xung đột, mâu thuẫn. Tất yếu
    cuộc sống luôn là những xung đột nhưng khi cuộc sống đã đặt ra những yêu cầu, nhiệm vụ
    dù khó khăn đến đâu thì con người cũng sẽ nỗ lực tìm cách vượt qua. Cái bi và bi kịch vẫn
    hiện hữu khách quan trong hành trình nỗ lực ấy khiến nhân loại vẫn không ngừng trăn trở
    về nó.
    Cái bi là một phạm trù cơ bản của mĩ học mang ý nghĩa nhân văn và triết lí sâu
    sắc, một hiện tượng thẩm mĩ đặc biệt chỉ nảy sinh trong quá trình lao động và đấu
    tranh cải tạo tự nhiên, xã hội của con người. Phạm trù cái bi cùng với cái đẹp, cái hài,
    cái cao cả khái quát những mảng hiện thực thẩm mĩ cơ bản của con người. Từ thời
    điểm thuật ngữ này ra đời, cho đến khi nó được thừa nhận là một phạm trù mĩ học
    độc lập và đến tận ngày hôm nay, nội hàm của nó đã được nhiều học giả bàn đến với
    những quan điểm khác nhau. Sự vận động ngày càng phức tạp của xã hội đòi hỏi
    chúng ta cần nhìn nhận, xem xét biểu hiện cái bi trong cuộc sống và trong nghệ thuật
    hết sức phong phú và đa dạng, đồng thời có cái nhìn mang tư duy phê phán với những
    quan điểm khác nhau về phạm trù này. Vì vậy, nghiên cứu về cái bi - phạm trù cơ bản
    của mĩ học là vấn đề cần được quan tâm đúng mức.
    Dưới sự lãnh đạo của Đảng, mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, thực hiện dân
    chủ, công bằng, bình đẳng là vô cùng tốt đẹp. Lâu nay, thường tồn tại quan điểm phủ
    nhận sự tồn tại của cái bi trong xã hội ta hoặc né tránh, không nói. Nhưng như vậy không
    có nghĩa là có thể thỏa mãn với hiện tại bởi lẽ vẫn còn những xung đột, mâu thuẫn,
    những oan trái, đau khổ có thật của con người hiện diện trong xã hội hiện nay mà nếu ta
    không dũng cảm và thẳng thắn thừa nhận, vạch ra để hành động thì hậu quả sẽ là khôn
    lường. Ngay trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói đây là cuộc chiến đấu khổng lồ
    chống lại những cái hư hỏng, kiến tạo những cái tốt đẹp. Con đường đến mục tiêu lí

    2
    tưởng ấy thật không bằng phẳng, dễ dàng, mà gập ghềnh, quanh co, nhiều rủi ro, bất
    trắc; cũng không phải chỉ có thuận buồm xuôi gió mà phải trải qua không ít vấp váp,
    sai lầm, lẽ phải và cái mới không phải bao giờ cũng chiến thắng dễ dàng, nhiều khi
    phải trả giá bằng cay đắng. Vì lẽ đó, cùng với niềm vui thắng lợi, niềm tin về những
    nhân tố mới mẻ, tốt tươi đang ngày càng nở rộ, chúng ta còn vô vàn trăn trở vì nhiều
    điều cũ kĩ, hư hỏng vẫn đang tác oai tác quái trong đời sống xã hội. Chừng nào những
    đấu tranh tốt - xấu, thiện - ác, chính - tà vẫn còn diễn ra gay gắt, thì chừng đó cái bi
    vẫn còn cơ sở hiện diện. Vì thế nghiên cứu làm rõ về biểu hiện và giá trị của cái bi
    trong cuộc sống và nghệ thuật là hết sức cần thiết.
    Lí luận mĩ học Mác - Lênin được các học giả Liên Xô trước đây xây dựng nên
    đã trở thành khuôn mẫu, kim chỉ nam cho mĩ học và nghệ thuật nước ta. Không thể
    phủ nhận những tác động tích cực từ khối tri thức đồ sộ của lí luận mĩ học Liên Xô
    đối với Việt Nam, đặc biệt là hệ thống thuật ngữ, khái niệm, phạm trù trong đó có cái
    bi đã trở thành công cụ cho tư duy lí luận, nền tảng vững chắc cho nghiên cứu mĩ học.
    Tuy nhiên “việc giới thiệu lí luận văn nghệ macxit của ta khá phiến diện đã làm tổn
    hại đến một trào lưu lí thuyết về văn học nghệ thuật chứa đựng nhiều chân lí và sáng
    tạo” [244, tr.643]. Khuynh hướng đối lập, khép kín, ít tiếp cận tư tưởng học thuật
    hiện đại, rập khuôn theo lí thuyết cũ, vận hành trong một khung tư duy khá chật hẹp
    đã khiến sự giao lưu lí thuyết và nghiên cứu mĩ học bị gián đoạn và dường như không
    đảm đương nổi vai trò “đi trước”, “phương pháp luận” cho nghiên cứu văn học nghệ
    thuật. Khung lí luận đó dường như không bao chứa nổi những vấn đề thẩm mĩ của đời
    sống đương đại đặt ra. Vì vậy lí luận và nhận thức về cái bi trong lí luận mĩ học cần
    có sự nỗ lực đổi mới và phát triển để đảm nhận được vai trò của mình.
    Mảng văn học nghệ thuật phản ánh cái bi sau năm 1975 có một sự chuyển biến
    rất mạnh mẽ trong phương thức thể hiện. Sau chiến tranh, phản ánh cái bi trong văn
    học là một yêu cầu chứa đầy tâm huyết và thử thách đối với các nghệ sĩ. Điều này do
    văn học hoặc là chỉ phản ánh một chiều, máy móc, dung tục thực tại, phản ánh lại quan
    niệm có sẵn; hoặc là việc dự báo tương lai, dự báo những hiện tượng xấu, tiêu cực
    trong xã hội thường khiến cho nghệ sĩ bị buộc tội bôi đen, gieo rắc hoài nghi, mà chính
    điều này đã khiến cho văn nghệ sĩ dè dặt, chưa phát huy được sức sáng tạo dồi dào.
    Phản ánh mảng thẩm mĩ cái bi trong văn học như thế nào là một vấn đề cần được giải
    đáp về lí luận để giúp văn học hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, vừa giúp nhận

    3
    thức về hiện thực cuộc sống, vừa mang đến cho con người khát vọng Chân - Thiện -
    Mĩ. Lịch sử nghệ thuật đã chứng minh rằng nền nghệ thuật của mỗi thời đại chịu ảnh
    hưởng rất lớn từ những thành tựu lí luận triết học và mĩ học. Bởi vậy nghiên cứu về cái
    bi, làm rõ bản chất, biểu hiện và giá trị của nó trong nghệ thuật dưới góc độ mĩ học là
    điều cần thiết chỉ dẫn cho việc sáng tạo hình tượng cái bi mang tính thẩm mĩ cao.
    Vấn đề cái bi không phải là mới. Đối với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước,
    cái bi đã được nghiên cứu nhiều ở cả phương diện lí luận và thực tiễn. Tuy nhiên, ở nước
    ta lâu nay, nghiên cứu mĩ học phần lớn hướng về cái đẹp, cái cao cả, cái bi chưa thực sự
    được quan tâm đúng mức mà chủ yếu vấn đề chỉ được trình bày với một dung lượng nhỏ ở
    hệ thống nguyên lí chung hay rải rác ở một số khía cạnh đan xen vào các vấn đề khác. Cái
    bi trong hệ thống phạm trù mĩ học, biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của nó chưa trở thành đối
    tượng nghiên cứu chuyên biệt và có hệ thống ở một luận văn, luận án nào.
    Với những lí do trên, tác giả đã chọn vấn đề “Cái bi trong hệ thống phạm trù
    mĩ học, biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của nó” làm đề tài luận án của mình.
    2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
    * Mục đích:Luận án là làm sáng rõ hơn bản chất thẩm mĩ của cái bi thông qua
    việc luận giải các nội dung trong cái bi và mối quan hệ giữa cái bi với các phạm trù
    khác trong hệ thống như cái đẹp, cái cao cả, cái hài; nhận diện sự biểu hiện của cái bi
    trong cuộc sống và trong văn học Việt Nam sau chiến tranh, từ đó rút ra những giá trị
    thẩm mĩ của cái bi và đề xuất một số giải pháp nâng cao nhận thức về giá trị thẩm mĩ
    của cái bi.
    * Nhiệm vụ nghiên cứu:
    - Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài, phân tích một cách có
    hệ thống các quan điểm về cái bi trong lịch sử mĩ học phương Tây và phương Đông,
    trong đó có Việt Nam.
    - Phân tích bản chất thẩm mĩ và các nội dung của cái bi và mối quan hệ giữa
    cái bi với các phạm trù cơ bản khác trong hệ thống phạm trù mĩ học.
    - Nhận diện và phân tích các biểu hiện cơ bản và sự chuyển biến, vận động
    của cái bi với tư cách một hiện tượng thẩm mĩ trong đời sống và văn học nghệ thuật
    Việt Nam sau chiến tranh.
    - Khái quát một số giá trị thẩm mĩ của cái bi đối với con người, xã hội và văn
    học nghệ thuật.

    4
    3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
    * Đối tượng nghiên cứu của luận án là phạm trù mĩ học cái bi và quan hệ của nó
    với các phạm trù mĩ học khác cũng như những biểu hiện và giá trị của cái bi.
    * Phạm vi nghiên cứu:
    - Luận án tiếp cận đối tượng và giải quyết nhiệm vụ của luận án trên cơ sở triết
    học và mĩ học Mác – Lênin. Hệ thống phạm trù mĩ học rất đa dạng, phong phú, luận án
    chỉ đi vào phân tích các khía cạnh quan hệ của cái bi với các phạm trù khách thể cơ bản
    của mĩ học là cái đẹp, cái cao cả, cái hài và một số phạm trù phái sinh.
    - Biểu hiện của cái bi trong đời sống và nghệ thuật nói chung bao trùm một
    phạm vi vô cùng rộng lớn cả về không gian, thời gian và lĩnh vực. Trong nghệ thuật
    thì văn học là một loại hình nghệ thuật đặc biệt điển hình, dùng ngôn từ làm phương
    tiện sắc bén để đi sâu vào các ngóc ngách của cuộc sống và thân phận con người. Vì
    vậy, tác giả chọn đi sâu nghiên cứu biểu biện và giá trị của cái bi trong phạm vi đời
    sống và văn học Việt Nam sau chiến tranh (với mốc thời gian là từ 1975 trở lại đây).
    4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
    Trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy vật, đề tài sử dụng một số
    phương pháp sau:
    - Phương pháp logic - lịch sử: Với phạm vi tư liệu trong suốt một tiến trình
    lịch sử tư tưởng triết học, mĩ học và nghệ thuật, người viết luôn ý thức đặt đối tượng
    nghiên cứu trong cả cái nhìn lịch sử để thấy được logic vận động nội tại trong quan
    niệm và biểu hiện của cái bi trong các thời kì lịch sử xã hội và văn học nghệ thuật.
    - Phương pháp hệ thống: Phương pháp này giúp tác giả có cách tiếp cận hợp lí
    để nhận diện bản chất thẩm mĩ của cái bi đặt trong hệ thống các phạm trù cơ bản của
    mĩ học. Phạm trù cái bi không tồn tại biệt lập mà có mối quan hệ biện chứng chặt chẽ
    với các phạm trù mĩ học khác, vừa thống nhất vừa khác biệt.
    - Phương pháp phân tích, tổng hợp: Phương pháp này cho phép phân tích để
    khái quát các tư tưởng về cái bi trong lịch sử, trên cơ sở đó tổng hợp tạo thành hệ
    thống quan điểm để làm sáng tỏ vấn đề một cách toàn diện nhất.
    - Phương pháp loại hình: Phương pháp này được sử dụng để nhận diện các
    khuynh hướng trong các tác phẩm văn học sau chiến tranh, làm cơ sở cho việc phân
    tích đặc điểm của cái bi biểu hiện trong văn học thời kì này.
    - Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh cho phép người viết nhận diện
    sự tương đồng và khác biệt trong quan niệm cũng như biểu hiện của cái bi ở phương

    5
    Tây, phương Đông và Việt Nam. Qua đó sẽ thấy những đặc thù trong quan niệm về
    cái bi trong nền thẩm mĩ dân tộc. Phương pháp này giúp làm rõ sự khác biệt của hai
    lĩnh vực biểu hiện cơ bản của cái bi là trong cuộc sống và văn học nghệ thuật đồng
    thời tìm ra sự tương đồng và khác biệt về giá trị thẩm mĩ đem lại của cái bi trong
    cuộc sống và trong nghệ thuật.
    - Phương pháp liên ngành: Để thực hiện đề tài, người viết luôn có ý thức vận
    dụng những thành tựu của triết học, mĩ học, lí luận và phê bình văn học nghệ thuật,
    đạo đức học, tâm lí học và sử học để đạt được cái nhìn toàn diện nhất.
    5. Đóng góp mới về khoa học của luận án:
    - Với những kết quả nghiên cứu của mình, luận án góp phần làm phong phú,
    hệ thống hóa quan niệm về cái bi, đánh giá, so sánh những quan niệm về cái bi ở
    phương Đông (Việt Nam) và phương Tây. Trên cơ sở mĩ học Mác - Lênin và tiếp cận
    một số thành tựu có giá trị của mĩ học đương đại đưa ra hệ thống lí luận về bản chất
    và nội dung của phạm trù cái bi, cũng như mối quan hệ cuả cái nó với các phạm trù
    khác trong hệ thống
    - Luận án nỗ lực nhận diện và phân tích biểu hiện của cái bi trong đời sống và
    văn học Việt Nam sau chiến tranh để thấy được sự vận động cũng như chuyển biến
    của nó với tư cách là một hiện tượng thẩm mĩ cơ bản.
    - Luận án cũng làm rõ được giá trị thẩm mĩ của cái bi trên hai phạm vi là sự
    phát triển của xã hội và sự nâng cao nhận thức, hoàn thiện nhân cách con người.
    Đồng thời, tác giả cũng phân tích những giá trị của sự phản ánh cái bi đối với văn học
    nghệ thuật.
    6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
    - Ý nghĩa lí luận: Với việc làm rõ bản chất, nội dung và vị trí của cái bi trong
    hệ thống phạm trù mĩ học, nhất là biểu hiện và giá trị của nó trong đời sống và trong
    văn học nghệ thuật, luận án đã làm sâu sắc và phong phú thêm lí thuyết phạm trù cái
    bi nói riêng, mĩ học nói chung.
    - Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người
    làm công tác nghiên cứu, giảng dạy mĩ học, triết học nghệ thuật, những người làm
    công tác quản lí văn hóa nghệ thuật và những ai quan tâm đến lĩnh vực khoa học này.
    7. Cơ cấu của luận án
    Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm bao
    gồm 4 chương, 11 tiết.

    6
    Chương 1
    TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

    1.1. Tình hình nghiên cứu về cái bi và mối quan hệ giữa cái bi với những
    phạm trù khác trong hệ thống phạm trù mĩ học
    1.1.1. Những công trình về bản chất thẩm mĩ và nội dung cuả cái bi
    Phạm trù cái bi được nhắc đến trong hầu hết các sách mĩ học. Đây là một
    phạm trù mĩ học cơ bản có giá trị thẩm mĩ cao. Bởi thế các học giả có nhiều tranh
    luận xung quanh phạm trù này nhưng họ đều thống nhất trong việc thừa nhận cái bi là
    một phạm trù mĩ học cơ bản.
    Những công trình về bản chất và nội dung của cái bi trong mĩ học phương Tây:
    Trong lịch sử phát triển tư tưởng mĩ học từ cổ đại đến hiện đại, hầu hết các
    thời kì đều có những công trình mang dấu ấn về sự phát triển quan niệm về cái bi.
    Tác phẩm đầu tiên cần được nhắc đến mang ý nghĩa đặt nền móng cho sự phát triển lí
    luận về cái bi là Nghệ thuật thơ ca (Thi pháp). Trong tác phẩm này, Aritxtot thể hiện
    những quan điểm sâu sắc về bản chất của cái bi mặc dù chỉ chủ yếu thông qua hình
    thức nghệ thuật bi kịch.
    Thời cận đại, tác phẩm Mĩ học của Heghen được coi là công trình nghiên cứu
    toàn diện và sâu sắc về cái bi kể từ sau Nghệ thuật thơ ca của Aritxtot. Từ lí luận
    xung đột, ông đã trình bày các xung đột bi kịch dưới một hệ thống chặt chẽ và chiếm
    một vị trí đặc biệt quan trọng trong lịch sử quan niệm về cái bi. Trong Hiện tượng
    học tinh thần, Bài giảng lịch sử triết học, Mĩ học, Heghen gọi bi kịch là “ngôn ngữ
    cao cấp”, là mặt trăng của nghệ thuật và thâu tóm nó trong toàn bộ nghệ thuật. Trong
    tác phẩm Triết học về nghệ thuật, Ph.Senlinh bàn nhiều về bản chất, kết cấu nội tại
    của cái bi xảy ra trong cuộc đấu tranh giữa tự do và tất yếu. Quan điểm của Heghen
    và Senlinh tuy còn mang yếu tố duy tâm nhưng cũng chứa đựng nhiều yếu tố biện
    chứng. Trecnusepxki thể hiện quan điểm đối lập với Heghen thể hiện trong Luận án
    tiến sĩ Quan hệ thẩm mĩ của nghệ thuật đối với hiện thực khi coi bi kịch không mang
    tính tất yếu mà hoàn toàn là kết quả của cái ngẫu nhiên. Ở công trình này, Trecnusepxki
    nêu quan điểm về cái đẹp là cực kì sâu sắc nhưng về cái bi, ngoài ưu điểm về tính nhân
    dân thì dường như lại mang nhiều hạn chế hơn so với quan niệm của Heghen.

    7
    Thời hiện đại, Karl Jaspers trong tác phẩm Bàn về cái bi đã thể hiện thực chất
    của cái bi trong quan hệ thắng và bại của ông, chiến thắng không thuộc về kẻ thắng
    mà thuộc về kẻ bại vì kẻ chiến thắng bề ngoài nhưng hèn kém bên trong. Xét đến
    cùng, thực chất không có gì chiến thắng thật sự khi so sánh với cái Siêu việt. Bi kịch -
    dẫn nhập ngắn của Adrian Poole đã giải quyết được nhiều vấn đề phức tạp của cái bi,
    nguồn gốc của cái bi. Sự ra đời của bi kịch của Nietzsche gợi mở con đường đánh giá
    các ý niệm về cái bi là phản ứng của hệ tư tưởng tư sản trước các mâu thuẫn xã hội
    ngày càng trở nên gay gắt.
    Triết học và mĩ học Phương Tây hiện đại (1992) của Nguyễn Hào Hải, Đỗ
    Huy, Nguyễn Văn Huyên đã đề cập đến một số trào lưu mĩ học phương Tây hiện đại
    để phát hiện ra những cái được và cái không được, cái cần tiếp thu và cái cần khước
    từ của các trào lưu, khuynh hướng đó. Ở một góc độ nào đó thì công trình đã một
    phần khắc phục được hai khuynh hướng cực đoan hoặc phủ nhận hoàn toàn hoặc tán
    dương thái quá trong nghiên cứu mĩ học phương Tây hiện đại nói chung và cái bi
    trong mĩ học phương Tây hiện đại nói riêng. Cuốn Triết học hiện sinh của Trần Thái
    Đỉnh (2005) và Triết học hiện sinh của Đỗ Minh Hợp (2010) khẳng định triết học
    hiện sinh là sự phản ứng lại cuộc khủng hoảng nhân văn, dạy ta suy nghĩ về bi kịch
    thân phận con người trong xã hội hiện đại.
    Những công trình về bản chất và nội dung của cái bi trong mĩ học Phương Đông:
    Cuốn Tư tưởng mĩ học Phật giáo của Thích Tâm Thiện cho rằng, Phật giáo
    quan niệm về cái bi không quy ước cho định mệnh hay chuyện số phận mà nó hiện ra
    ở chỗ “Biết” và “Không biết”. Tác giả lí giải quan niệm đó qua câu chuyện “Đứa con
    hoang” trong Kinh Pháp Hoa thể hiện mâu thuẫn khắc nghiệt giữa sự bần cùng và sự
    giàu có - một mâu thuẫn rất điển hình dẫn đến những bi kịch trong xã hội Ấn Độ phân
    chia đẳng cấp nặng nề. Bài viết Mĩ học của Phật giáo của Hoàng Thiệu Khang coi
    Đức Phật là nhà mĩ học của thể nghiệm thẩm mĩ thông qua một chủ thể mang biện
    chứng thẩm mĩ nội tại. Bài viết này đã tạo ra một cách tiếp cận mới với những vấn đề
    xung đột bi kịch ở phương Đông, đặc biệt trong mĩ cảm Phật giáo với những nét khác
    biệt so với những quan niệm theo chuẩn của phương Tây.
    Trung Quốc có một nền lí luận mĩ học và văn học nghệ thuật cực kì phong phú
    và đồ sộ không kém gì lĩnh vực sáng tác và ảnh hưởng rất sâu sắc đến Việt Nam. Tuy

    8
    vậy, những tác phẩm ưu tú của Trung Quốc như Nhạc kí của Công Tôn Ni Tử, Văn
    phú của Lục Cơ, Văn tâm điêu long của Lưu Hiệp, Thi phẩm của Chung Vinh, Tùy
    viên thi thoại của Viên Mai còn ít được dịch ra tiếng Việt. Khâu Chấn Thanh - Lí
    luận văn học, nghệ thuật cổ điển Trung Quốc là cuốn sách có tính phổ cập nhưng
    cũng không kém phần thú vị sâu sắc giới thiệu tương đối có hệ thống về lí luận mĩ
    học, văn học nghệ thuật Trung Quốc.
    Bốn bài giảng mĩ học của Lí Trạch Hậu (2000) cũng có ít nhiều bàn về phạm
    trù cái bi nhưng còn mờ nhạt. Tác giả Chu Quang Tiềm trong hai cuốn sách Tâm lí
    học bi kịch, Khoảng cách cuộc đời và bi kịch, hay tác giả Khấu Bằng Trình trong
    cuốn Luận về tinh thần bi kịch của Trung Quốc cũng bàn về bản chất của phạm trù
    cái bi. Những công trình này hình thành hai hướng nhận định khác nhau về sự tồn tại
    của cái bi trong mĩ học và nghệ thuật Trung Quốc: Thứ nhất là quan điểm cho rằng
    người Trung Quốc không có bi kịch đích thực vì khởi đầu thì bi kết thúc thì hoan hỉ,
    đoàn tụ, thể hiện ở quan điểm của Vương Quốc Duy trong Hồng lâu mộng bình luận
    và tư tưởng của Chu Quang Tiềm trong Tâm lí học bi kịch, Khoảng cách giữa cuộc
    đời và bi kịch. Quan điểm này có những lí giải hợp lí nhưng có phần cực đoan trong
    kết luận. Thứ hai là quan điểm thừa nhận sự tồn tại cái bi trong mĩ học và nghệ thuật
    Trung Quốc thể hiện qua tác giả Khấu Bằng Trình trong Luận về tinh thần bi kịch của
    Trung Quốc. Quan điểm này thể hiện sự khách quan và toàn diện hơn trong đánh giá.
    Các cuốn Giáo trình lịch sử văn học Trung Quốc (Tập II) của Trương Chính; Lịch sử
    mĩ học Trung Hoa thời phong kiến của Phạm Quang Trung đã hệ thống hóa lịch sử tư
    tưởng thẩm mĩ Trung Hoa thời phong kiến qua các trường phái triết học - mĩ học cơ
    bản, trong đó phân tích quan điểm về cái bi trong mĩ học Trung Quốc.
    Trong các bài: Những quan niệm thẩm mĩ độc đáo về nghệ thuật của người Nhật
    do Phong Vũ dịch (1996), bài Mĩ học Kawabata Yasunari của Khương Việt Hà (2006), bài
    Mĩ học Mono No Aware và văn chương Nhật Bản của Lê Thị Thanh Tâm (2012) đề cập
    đến khái niệm “Aware” (bi cảm) và “mono no aware” (nỗi buồn của sự vật). Đây là những
    khái niệm hàm chứa gần như đầy đủ những tinh hoa và nghịch lí trọng yếu của tâm hồn
    Nhật Bản, là khái niệm được cắt nghĩa một cách phức tạp nhất bao hàm nhiều sự đối
    nghịch, mâu thuẫn tạo ra nhiều tranh biện trong giới học thuật Nhật Bản và thế giới, đồng
    thời là nhân tố góp phần tạo nên sự phong phú của hệ thống lí luận mĩ học phương Đông.

    9
    Những công trình trên giúp tái hiện một bức tranh tư tưởng thẩm mĩ về cái bi ở
    cả phương Tây và phương Đông để tác giả có thể khái quát mạch nguồn phát triển
    quan niệm về cái bi trong lịch sử tư tưởng mĩ học của nhân loại.
    Các công trình bàn về cái bi trong mĩ học Việt Nam:
    Có quan điểm cho rằng trong nghệ thuật truyền thống Việt Nam không có cái
    bi và cái hài hay bi kịch và hài kịch. Nhà nghiên cứu Trần Trí Trắc, khi bàn về cái bi,
    cái hài trong nghệ thuật chèo cổ cho rằng, ở nghệ thuật truyền thống nói chung và
    chèo cổ nói riêng “không thể có cái bi, cái hài theo đúng nguyên lí của mĩ học
    phương Tây”, “ai gán ghép cho Chèo cổ thành loại hình có các thể tài bi kịch, hài
    kịch là sai lầm, hoặc ở chèo cổ có sự kết hợp hài hòa đến tuyệt diệu giữa cái hài với
    cái bi và thành một thuộc tính phẩm chất độc đáo của Chèo thì càng vô lí”. Ông đã
    tìm cách lí giải cho vấn đề đó: “Cái sống và cái chết của người Đại Việt rất gần gũi
    nhau trong văn hóa, cho nên, người Đại Việt . không xem cái chết là kẻ thù của cái
    sống . mà là tìm thấy giá trị của cái chết trong cái sống, trong thực tại để được thăng
    hoa cái chết của mình ở thế giới tâm linh Như vậy, không thể có cái gọi là bi kịch,
    hài kịch ở văn học nghệ thuật nói chung và ở Chèo cổ nói riêng .Ở Chèo cổ, không
    có cái bi và cái hài, thậm chí, không có cả tính bi lẫn tính hài nữa. Vì không có cái bi
    thì làm sao có tính bi, không có cái hài thì làm sao có tính hài? . Kết thúc có hậu đã
    như một phương tiện phủ định quan niệm về cái bi với cái hài của Chèo cổ” (Trong
    bài Bàn về cái bi cái hài trong chèo cổ đăng tải trên trang vnmusic.com.vn
    ngày16/1/2013).
    Nhà nghiên cứu Mịch Quang đã thể hiện quan điểm đối lập với quan điểm trên
    trong cuốn Khơi nguồn mĩ học dân tộc. Tác giả đã giới thiệu nền văn hóa nghệ thuật
    của dân tộc ta qua việc liên kết chặt chẽ với các phạm trù: cái đẹp, cái bi, cái hài, cái
    hậu, cái nhu, cái động. Đối tượng chính của công trình này là tư tưởng mĩ học trong
    nghệ thuật dân gian, chỉ lướt qua chứ không đi sâu vào mĩ học trong đời sống. Tác
    giả rất quan tâm đến phạm trù cái bi trong các phạm trù mĩ học dân tộc và đặc biệt là
    đã có những phát hiện sâu sắc về sự khác biệt giữa cái bi trong quan niệm thẩm mĩ
    của văn hóa nghệ thuật dân gian dân tộc Việt Nam so với cái bi trong truyền thống mĩ
    học phương Tây. Tác giả đã đề cập tới sự vắng bóng cái bi tuyệt đối mà chỉ có cái bi
    có hậu, bi hùng. Qua cách tiếp cận này, tác giả cũng đã nhắc nhở người nghiên cứu mĩ
    học dân tộc tránh khỏi bị trói buộc bởi những tiêu chuẩn phương Tây và cả những tiêu

    10
    chuẩn quá cụ thể của dân tộc phương Đông khác. Tác giả Mịch Quang đã mạnh dạn
    phác họa một nền mĩ học ẩn chứa trong truyền thống nghệ thuật dân tộc, được bắt
    nguồn trong sáng tạo nghệ thuật của người dân Việt Nam từ thuở xa xưa còn lưu truyền
    đến ngày nay. Ông nêu lên các phạm trù mĩ học dân tộc gồm cái đẹp bắt nguồn từ quan
    niệm dân gian. Tác giả kết luận nền mĩ học dân tộc ta không tồn tại cái bi tuyệt đối mà
    chỉ có cái bi có hậu hoặc bi hùng, bi hài.
    Tư tưởng mĩ học Hồ Chí Minh của Cù Huy Chử là công trình khái lược những
    di sản nghệ thuật của Hồ Chí Minh, bước đầu luận giải những quan điểm mĩ học
    trong tư tưởng Hồ Chí Minh từ đó nêu lên một số vấn đề lí luận về sự nghiệp xây
    dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
    Sự khảo sát trên cho thấy, bàn về cái bi trong mĩ học dân tộc đã có một số
    công trình, song vẫn là một khoảng trống cần đến những hướng đi sâu nghiên cứu.
    Tác giả mong muốn có những đóng góp về mảng này trong luận án của mình.
    Những công trình đề cập đến bản chất và nội dung của cái bi trên lập trường
    mĩ học Mác – Lênin:
    C.Mác và Ph.Ăngghen không để lại một tác phẩm nào có tính hệ thống bàn về
    mĩ học. Tuy nhiên những quan điểm triết học và mĩ học của các ông đã làm cơ sở cho
    các nhà mĩ học macxit xây dựng hệ thống của mình. Trong Bức thư gửi Latxan (1859),
    bàn về vở bi kịch Phơrranxơ Phôn Dickinghen của Latxan, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
    thể hiện quan niệm về bản chất của bi kịch từ sự khái quát và giải thích theo quan điểm
    duy vật lịch sử, nghiên cứu toàn diện các xung đột xã hội dẫn đến bi kịch và đưa ra
    những khuyến nghị về nguy cơ vi phạm những nguyên tắc căn bản của việc tôn trọng
    hiện thực trong việc hoàn mĩ hóa các nhân vật trong những vở bi kịch cách mạng.
    Phần lớn các công trình về mĩ học, giáo trình mĩ học của các nhà mĩ học
    macxit của Liên Xô trước đây đều dựa trên lập trường chủ nghĩa duy vật lịch sử để
    phân tích bản chất của cái bi. Trong đó đáng chú ý có: Nguyên lí mĩ học Mác - Lênin
    của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô (1963), Những phạm trù mĩ học cơ bản của
    Iu.B.Bôrep (1974), Nguyên lí mĩ học Mác-Lênin của UI.A.Lukin và
    V.C.Xcacherosikop (1984), Tài liệu tham khảo mĩ học của B. Riwnicốp, M.B.
    Khraptrenco (1984) với Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, Cuốn Mĩ học cơ
    bản và nâng cao, Mĩ học Mác-Lênin của M.F. Ôpxiannhicop (2001)

    11
    Những công trình trên đã trình bày nguồn gốc, bản chất của cái bi trong hệ thống
    nguyên lí chung của mình, mặc dù có đôi nét khác nhau trong cách tiếp cận nhưng phần
    lớn là thống nhất trên quan điểm mĩ học Mác - Lênin. Đây là những tài liệu rất quý báu
    để giới nghiên cứu mĩ học trong nước kế thừa để xây dựng hệ thống phạm trù mĩ học của
    mình. Tuy nhiên, với sự biến đổi nhanh chóng của đời sống và lí luận, chúng ta dễ dàng
    nhận thấy hạn chế của những quan niệm trên. Có khi quá nhấn mạnh đến nội dung đấu
    tranh giai cấp, ngay cả bi kịch của cá nhân cũng phải tìm cách quy về những nguyên
    nhân của vấn đề giai cấp. Điểm nhìn này khiến nhiều mâu thuẫn trong nội bộ chính
    chúng ta, những bi kịch cá nhân trong những thực thể người tốt xấu đan xen phức tạp
    chưa được lí giải đúng mức. Những đánh giá có phần thiếu công bằng, khách quan đối
    với các thành tựu mĩ học phương Tây hiện đại. Trong Những phạm trù mĩ học cơ bản,
    Bôrep đã có những nhận xét phủ nhận hoàn toàn các giá trị của cái bi trong mĩ học hiện
    sinh, coi đó là cái phi bi kịch - thói tán dương cái chết, niềm tuyệt vọng, thuyết giáo về
    sự vô nghĩa của cuộc sống. Ông chỉ thấy ở đó những tiêu cực, bi quan, sa đọa mà không
    nhận thấy những xung đột giằng xé trong sâu thẳm lương tri, khát vọng sống của con
    người muốn phản kháng lại hiện thực còn nhiều đen tối, đặc biệt là hiện thực chiến tranh
    quá khốc liệt. Sau này, Những nhận xét về mĩ học của chủ nghĩa hiện sinh của nhà
    nghiên cứu Vectxman là công trình có giá trị thể hiện cách tiếp cận khá khách quan, công
    bằng và thấu đáo những quan điểm mĩ học đặc biệt là quan điểm về cái bi của các nhà
    triết học hiện sinh.
    Về các giáo trình mĩ học ở trong nước: Có thể kể đến các công trình của các
    tác giả như sau: Mĩ học đại cương (1996), Giáo trình Mĩ học Mác - Lênin (1985) của
    Đỗ Văn Khang, Đỗ Huy; Giáo trình mĩ học của Hoài Lam (1991), Mĩ học và giáo dục
    thẩm mĩ (1998), Mĩ học Mác - Lênin của Vũ Minh Tâm, Những nguyên lí cơ bản của mĩ
    học Mác - Lênin của Nguyễn Văn Trung (1990), Giáo trình Mĩ học đại cương (2001)
    của tác giả Nguyễn Văn Huyên và Đỗ Huy; Mĩ học - Khoa học về các quan hệ thẩm
    mĩ của Đỗ Huy (2000); Giáo trình Mĩ học Mác - Lênin của Đỗ Huy, Vũ Trọng Dung
    (2001); Mĩ học đại cương của Đào Duy Thanh (2002), Mĩ học Mác - Lênin (2003) của
    Vĩnh Quang Lê, Mĩ học đại cương của Lê Ngọc Trà (2003), Giáo trình mĩ học Mác -
    Lênin của Vũ Trọng Dung (2003); Mĩ học Mác - Lênin của Nguyễn Văn Đại (2006), Mĩ
    học đại cương của Thế Hùng (2006), Mĩ học đại cương của Lê Văn Dương (2007), Mĩ
    học của Phạm Quang Trung (2010). Từ Giáo trình Đại cương về những khuynh hướng

    12
    cơ bản trong lịch sử Mĩ học, tác giả Đỗ Huy đã khái quát quá trình nghiên cứu mĩ học
    trong đó có phạm trù cái bi ở những khuynh hướng mĩ học khác nhau trong lịch sử.
    Lịch sử mĩ học của Đỗ Văn Khang cũng đã có những nét chấm phá về những quan
    niệm về cái bi trong lịch sử tư tưởng mĩ học, đặc biệt là trong lĩnh vực nghệ thuật.
    Ngoài các giáo trình mĩ học còn một số công trình đề cập đến khái niệm cái bi và bi
    kịch: Từ điển triết học giản yếu, Lí luận văn học, Từ điển triết học, Thuật ngữ văn
    học - mĩ học, Từ điển thuật ngữ văn học.
    Ở nước ta, số lượng giáo trình mĩ học là khá phong phú. Khảo sát các công
    trình này cho thấy tuy cách tiếp cận cụ thể là có sự khác nhau, nhưng về quan điểm
    chung thì hầu hết đều dựa chủ yếu trên nền tảng quan điểm của mĩ học Mác - Lênin.
    Tất cả các cuốn giáo trình này đều thống nhất thừa nhận cái bi là một phạm trù mĩ
    học cơ bản và có quan điểm chung về bản chất, nguồn gốc của cái bi. Nhưng trong
    hầu hết những công trình này, dung lượng cũng như nội dung bàn về bản chất thẩm
    mĩ của cái bi còn dừng lại ở sự khái lược chung, dung lượng không đáng kể, chưa đi
    sâu vào phân tích những mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể, tất nhiên và ngẫu
    nhiên, cái chung và cái riêng trong cái bi để có thể đưa ra sự nhận thức một cách toàn
    diện và sâu sắc về phạm trù không dễ tiếp cận này.
    Bản chất thẩm mĩ của cái bi trong khoa học mĩ học của Nguyễn Duy Cường
    (2013) là một công trình dành riêng bàn về phạm trù cái bi trong đó tác giả chủ yếu đi
    vào giới thiệu lịch sử nghiên cứu phạm trù cái bi ở cả phương Tây và phương Đông
    (Trung Quốc) hơn là đưa ra những kiến giải mang tính hệ thống lí luận chặt chẽ về
    bản chất thẩm mĩ của cái bi.
    1.1.2. Những công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa cái bi và các phạm
    trù mĩ học khác
    Để có thể làm rõ hơn nội hàm cũng như những nội dung cụ thể của khái niệm
    cái bi và phân biệt cái bi với tư cách một phạm trù mĩ học, cần phân tích mối quan hệ
    giữa cái bi và các phạm trù cơ bản của mĩ học: cái đẹp, cái cao cả và cái hài. Trong
    hầu hết các giáo trình mĩ học trong nước đã nêu ở trên đều có bàn đến khía cạnh mối
    quan hệ thẩm mĩ giữa cái bi và các phạm trù mĩ học khác (đặc biệt là cái đẹp) nhưng
    chỉ thể hiện ở những điểm nhỏ và khá mờ nhạt.
    Trong Kỷ yếu hội nghị Cái anh hùng - một phạm trù cơ bản của mĩ học Mác -
    Lênin có nhiều ý kiến bàn luận về mối quan hệ giữa cái bi và cái anh hùng. Tuy nhiên phần

    13
    lớn các ý kiến ở đây nêu lên sự khác biệt giữa hai phạm trù này, chưa thấy rõ mối quan hệ
    bền chặt và sự giao thoa của hai phạm trù này, chẳng hạn: “cái hùng nào cũng là cái đẹp
    nhưng chẳng cái hùng nào lại là cái bi cả”, “khi hành động anh hùng còn đang diễn ra thì
    lúc này cái bi chưa xảy ra” [138, tr.81].
    Từ xu thế dân chủ hóa đến đổi mới quan niệm về hiện thực trong văn học,
    nghệ thuật đã dẫn tới sự thừa nhận cái bi, cái hài như hai phạm trù phải tồn tại
    song song trong nghệ thuật xã hội chủ nghĩa. Nhà nghiên cứu Phong Lê trong bài
    Văn học Việt Nam trước và sau 1975 - nhìn từ yêu cầu phản ánh hiện thực (trích
    trong Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb
    Giáo dục, 2006) trực diện hơn khi đề cập đến những biểu hiện thẩm mĩ của văn
    học đổi mới trong sự so sánh lịch sử. Tác giả đưa ra định đề “Cái hài bên cái bi và
    một giai đoạn mới của văn học” để khái quát đặc trưng thẩm mĩ nổi bật của văn
    học sau 1975 nói chung, văn xuôi nói riêng. Ông viết: “Thế nhưng dẫu toàn bộ
    nền văn học mới đã chuyển sang âm điệu nghiêm trang, thì cuộc sống, trong lẽ tồn
    tại bình thường của nó lúc nào cũng cần có cái hài và tiếng cười” [147, tr.96].
    Ông cho rằng sự “nghiêm trang” của văn học cách mạng “dần dần trở thành
    không tự nhiên”, bởi “cái cười, nhu cầu cười” là một nhu cầu bình thường của
    cuộc sống: “Nhu cầu trở lại bình thường ấy dường như đã diễn ra vào thập niên
    cuối của thế kỉ XX, tính từ công cuộc đổi mới” [147, tr.96]. Phong Lê cũng đã nói
    đến một “hệ thẩm mĩ mới”, và theo ông cái hài và cái bi chính là một cặp tạo nên
    sự cân đối, hài hoà cho hệ thẩm mĩ mới ấy.
    Cuốn Khơi nguồn mĩ học dân tộc của Mịch Quang cũng có đề cập đến mối
    quan hệ của cặp phạm trù này trong những hình thức nghệ thuật đặc thù của dân tộc.
    Tác giả cũng bàn đến mối quan hệ giữa cái bi với cái anh hùng, cái bi với cái hài
    trong nghệ thuật dân gian dân tộc. Nếu tuồng là nền sân khấu tiêu biểu cho cái bi
    hùng thì chèo lại tiêu biểu cho cái bi hài.
    Những công trình bàn về mối quan hệ giữa cái bi và những phạm trù mĩ học
    khác trong hệ thống nêu trên còn chưa thật sự đề cập sâu đến vấn đề này hoặc
    nghiêng nhiều về biểu hiện mối quan hệ này trong nghệ thuật. Vì thế trong luận án
    tác giả sẽ tiếp cận hệ thống để làm rõ mối quan hệ giữa cái bi với những phạm trù
    mĩ học khác.

    14
    1.2. Tình hình nghiên cứu về biểu hiện của cái bi trong đời sống và trong
    văn học Việt Nam (sau năm 1975)
    Hầu hết các sách dưới dạng giáo trình hay ở hệ thống lí luận chung theo quan
    điểm mĩ học Mác - Lênin đều ít nhiều đề cập đến vấn đề các lĩnh vực biểu hiện cụ thể
    của cái bi. Mức độ chi tiết cụ thể có thể khác nhau nhưng hầu hết đều nhìn nhận các
    lĩnh vực biểu hiện của cái bi trên hai phương diện chủ yếu: trong cuộc sống và trong
    nghệ thuật.
    1.2.1. Những công trình bàn về biểu hiện của cái bi trong đời sống xã hội Việt
    Nam (sau năm 1975)
    Trong cuốn Mĩ học đại cương, Đỗ Văn Khang đã đưa ra nhiều dạng thức biểu
    hiện của cái bi trong đời sống như: bi kịch của các nhân vật chết trong đêm trường đen
    tối, bi kịch của các nhân vật chết trước bình minh, bi kịch của cái cũ, bi kịch của chính
    cái xấu, bi kịch của sự nhầm lẫn, ngu dốt, bi kịch của những khát vọng con người.
    Trong hầu hết các cuốn giáo trình mĩ học trong nước đều đề cập đến biểu hiện của cái
    bi trong cuộc sống ở những mức độ khác nhau song còn dừng lại ở lí luận chung chưa
    đi vào phân tích những biểu hiện cụ thể của cái bi trong đời sống xã hội hiện đại, đặc
    biệt là ở Việt Nam.
    Cuộc tranh luận về cái bi ở Việt Nam cuối những năm 60, 70 có hai luồng ý
    kiến: Thứ nhất là quan điểm cho rằng ở nước ta không còn mâu thuẫn đối kháng giai
    cấp nữa cho nên không còn cơ sở cho sự xuất hiện của cái bi. Cũng trong Kỷ yếu hội
    nghị Cái anh hùng - một phạm trù cơ bản của mĩ học Mác - Lênin có nhiều ý kiến
    cho rằng trong sự phát triển tốt đẹp của xã hội ta hiện nay, cái bi sẽ mất dần vị trí và
    thay vào đó là sự lên ngôi của cái anh hùng, các nước xã hội chủ nghĩa trong đó có
    Việt Nam không còn giai cấp đối kháng, không còn người áp bức, bóc lột người,
    “điều này góp phần quan trọng vào việc làm cho cái bi đang phải nhường vị trí phạm
    trù cơ bản nổi bật nhất cho cái hùng” [138, tr.83]. Theo lập luận của các tác giả, nội
    dung chủ yếu của cái bi là đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc. Ở các nước xã hội
    chủ nghĩa vấn đề này đã được giải quyết cơ bản nên dần sẽ không còn cái bi. Ý kiến
    này dường như mang tính chủ quan, chưa cảm nhận thật sự sâu sắc về những khó
    khăn phức tạp trên con đường mà dân tộc ta đang trải qua. Thứ hai là luồng ý kiến
    cũng xuất phát từ thực tiễn công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay khẳng định
    cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, cái tốt đẹp và cái xấu xa thấp hèn vẫn chưa
    chấm dứt thì cái bi vẫn còn cơ sở để tồn tại.

    15
    Nhiều công trình đã đề cập đến những vấn đề còn tồn tại, những mâu thuẫn
    thậm chí là xung đột vẫn còn diễn ra gay gắt trên nhiều mặt của đời sống xã hội như:
    Xung đột xã hội: Một số vấn đề lí luận và thực tiễn ở Việt Nam của Võ Khánh Vinh,
    Nguyễn Mạnh Kháng, Lê Văn Cương, Vấn đề mâu thuẫn xã hội ở nông thôn Việt
    Nam hiện nay - Luận án tiến sĩ Triết học của Trần Đắc Hiến (2008), Xung đột xã hội
    về đất đai ở nông thôn thời kì đổi mới - Luận án tiến sĩ Xã hội học của Phan Văn Tân
    (2001), Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường
    ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khắc phục của Nguyễn Đình Tường (Tạp chí Triết
    học số 6 năm 2002), Một số mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình xây dựng lối sống
    mới ở nước ta hiện nay của Võ Văn Thắng (Tạp chí Triết học số 8 năm 2005), Công
    cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay - nhìn từ giác độ mâu thuẫn của quá trình phát
    triển của Phạm Ngọc Quang (Tạp chí Triết học số 10 năm 2005), Thực hiện công
    bằng xã hội ở Việt Nam: mâu thuẫn và phương pháp giải quyết của Nguyễn Tấn
    Hùng, Lê Hữu Ái (Tạp chí Triết học số 4 năm 2008); Mâu thuẫn giữa người với
    người: một số nội dung cơ bản của Nguyễn Ngọc Hà (Tạp chí Triết học số 10 năm
    2010). Đây là những công trình đề cập đến một khía cạnh nào đó về những mâu
    thuẫn, xung đột đang tồn tại trong xã hội ta hiện nay. Tuy nhiên, sự đề cập này chỉ ở
    góc độ triết học, xã hội học chứ chưa đề cập một cách trực diện về những mâu thuẫn
    đang tồn tại trong xã hội có nguy cơ trở thành những bi kịch nếu chúng ta không nỗ
    lực giải quyết. Dường như về góc cạnh này, mảng lí luận còn khá dè dặt và chưa thật
    sự “nói hết”. Luận án mong muốn sẽ góp phần vào mảng lí luận này dưới góc độ cái
    bi mĩ học, nhận diện trực tiếp những biểu hiện xung đột đã, đang và sẽ có thể gây ra
    bi kịch trong xã hội Việt Nam hiện đại.
    1.2.2. Những công trình bàn về biểu hiện của cái bi trong văn học Việt Nam
    (sau năm 1975)
    Văn học trong chiến tranh được nhìn nhận dường như vắng bóng cái bi thuần
    túy bởi một nhu cầu thẩm mĩ chính đáng trong thời đại của cái anh hùng. Không khó
    lí giải về sự thiếu vắng này trong hoàn cảnh chiến tranh khi tất cả cùng hướng về
    một mục tiêu: phải chiến đấu và chiến thắng. Đất nước đã hòa bình gần 40 năm, sẽ
    là có lỗi với quá khứ và thiếu trách nhiệm với tương lai nếu chúng ta bỏ qua một sự
    thật làm nên một phần bộ mặt của cuộc sống hôm qua và hôm nay. Nhà văn Hồ
    Phương bàn đến sự trở về của nguyên lí: “Văn học là nhân học” với sự khai thác cái

    16
    bi trong văn học nghệ thuật. Trong bài viết Những tìm tòi không mệt mỏi, ông cho
    rằng “chính trong những bi kịch con người đã bộc lộ rõ hơn, đầy đủ và thật hơn, tất
    cả bản lĩnh cũng như phẩm giá, qua những bi kịch ấy chúng ta mới thấy hết được
    cái giá của chiến thắng” [158].
    Sau năm 1975, vẫn còn những ý kiến băn khoăn về những hiện tượng “khác”
    và “lạ” trong văn học phản ánh cái bi trong chiến tranh như quan điểm của Trần Hữu
    Tá: “Việc một số nhà văn nghiêng về thể hiện “những số phận cá nhân” mà làm mờ
    đi vận mệnh dân tộc” là hiện tượng cần uốn nắn” [174, tr.122]. Trong Văn xuôi về
    chiến tranh - hai giai đoạn của sự phát triển, Đinh Xuân Dũng cho rằng từ khoảng
    đầu thập kỉ 80 đến giữa thập kỉ 90, văn xuôi viết về chiến tranh đang tồn tại đồng thời
    ba xu hướng: Giữ “tạng” viết cũ, nhìn méo chỉ thấy hiện thực bi thảm là duy nhất,
    nhưng khuynh hướng chính là “khám phá và đặt ra những vấn đề nóng bỏng nhất
    trong chiến tranh và sau chiến tranh do sự tác động dai dẳng của chiến tranh trong
    đời sống của từng cá nhân và toàn xã hội” [33, tr.95].
    Trên Báo Văn nghệ, cơ quan ngôn luận của Hội Nhà văn Việt Nam (số 49
    &50, ra ngày 5/12/1987), Nguyễn Minh Châu cho in bài phát biểu nổi tiếng Hãy đọc
    lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh hoạ. Bài báo vừa là tuyên ngôn lí thuyết,
    vừa thể hiện tinh thần đổi mới văn học hết sức triệt để của giới sáng tác. Nguyễn
    Minh Châu kêu gọi Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa và đặt
    vấn đề “khuyến khích cá tính, khuyến khích sáng tạo và chấp nhận đa dạng, chấp
    nhận sáng tối, hoàn toàn đặt lòng tin vào lương tri các nhà văn” [16, tr.116]. Vấn
    đề mà Nguyễn Minh Châu nêu ra đã nhận được sự hưởng ứng từ đông đảo văn nghệ
    sĩ. Có thể nói, từ cuối 1987, đối thoại với những giá trị được mặc định, với những
    niềm tin quen thuộc được thừa nhận, tự do sáng tạo của người nghệ sĩ không còn là
    vấn đề quá nhạy cảm. Trong bầu không khí cởi mở dân chủ của đời sống văn học sẽ
    tác động mạnh mẽ đến chủ thể sáng tạo với quan niệm mới về nhà văn, đến sự thay
    đổi quan niệm nghệ thuật về hiện thực và con người, đến sự thay đổi thi pháp thể
    loại của các thế hệ nhà văn Việt Nam.
    Có hai cuộc hội thảo lớn thu hút sự tham gia rất đông đảo của cả giới sáng tác,
    lẫn giới nghiên cứu phê bình: Thứ nhất, xoay quanh đề tài về mối quan hệ giữa văn
    nghệ và chính trị. Thứ hai, tập trung vào đề tài văn học phản ánh hiện thực. Văn học

    17
    cần phản ánh hiện thực như thế nào? Chủ thể sáng tạo của người nghệ sĩ có vai trò gì
    trong việc phản ánh hiện thực. Văn học phục vụ chính trị là như thế nào? Đó là những
    vấn đề lí luận và thực tiễn sáng tác liên quan tới hai đề tài nói trên. Những vấn đề
    này, tưởng như đã có kết luận xong xuôi từ lâu, nay được xới lên bàn bạc, phân tích,
    giải quyết lại theo tinh thần đổi mới.
    Văn học Việt Nam sau 1975, những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy của
    Nguyễn Văn Long và Lã Nhâm Thìn (2009) là một công trình tập hợp nhiều bài viết
    trong Hội thảo khoa học cùng tên giúp chúng ta có được cái nhìn khá toàn diện về
    diện mạo của văn học Việt Nam sau 1975. Trong đó có những bài viết phân tích khá
    sâu mảng đề tài cái bi trong văn học Việt Nam sau 1975, mảng đề tài gây ra nhiều
    bão tranh luận về nhận chân giá trị và cũng là mảng trước đó bị né tránh hoặc phản
    ánh một chiều, đơn giản. Có thể kể đến những bài viết đề cập đến một số khía cạnh
    của vấn đề này: Văn học Việt Nam trước và sau 1975 - nhìn từ yêu cầu phản ánh hiện
    thực của Phong Lê, Nhà văn hiện đại Việt Nam - những giới hạn và sứ mệnh của Trần
    Văn Toàn, Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh sau 1975 và những thành tựu nghệ thuật
    bị bỏ lỡ của Nguyễn Phượng, Nỗi buồn chiến tranh viết về chiến tranh thời hậu chiến
    - từ chủ nghĩa anh hùng đến nhu cầu đổi mới bút pháp của Phạm Xuân Thạch, Về
    anh hùng, về chiến tranh và về đồng đội hay là một nỗi buồn chiến tranh khác nhân
    đọc Những bức tường lửa của Khuất Quang Thụy của Nguyễn Chí Hoan, Hình tượng
    “con người” - nạn nhân chiến tranh trong hai tiểu thuyết: Một nỗi đau riêng và Nỗi
    buồn chiến tranh của Nguyễn Thị Mai Liên, .
    Bàn về chủ đề này còn có cuốn Tiểu thuyết và chiến tranh của Nguyễn Thanh
    Tú (2014) và hàng loạt các bài tạp chí: Tiểu thuyết viết về chiến tranh sau năm 1975
    của Tôn Phương Lan (Tạp chí Văn học số 5/1980), Vài suy nghĩ về phản ánh sự thật
    trong chiến tranh của Chu Lai (Tạp chí Văn nghệ quân đội 4/1987), Những nghịch lí
    chiến tranh của Hoàng Ngọc Hiến (Báo Văn nghệ số 15/1991), Sự thật chiến tranh và
    những tác phẩm viết về chiến tranh của Nam Hà (Tạp chí Văn nghệ quân đội 7/1992),
    Một cách tái hiện chiến tranh của Bùi Việt Thắng (Tạp chí Văn nghệ quân đội, số
    10/1994), Người lính sau hòa bình trong tiểu thuyết chiến tranh thời kì đổi mới của
    Nguyễn Hương Giang (Tạp chí Văn nghệ quân đội số 4/2001), .
    Có những nghiên cứu đề cập đến những sắc thái khá mới về bi kịch chiến
    tranh: vấn đề tình dục cá nhân. Sau khi phân tích các vấn đề Chiến tranh, tình yêu và

    18
    tình dục trong văn học Việt Nam đương đại qua một số tác phẩm, Đoàn Cầm Thi kết
    luận: “Các tác giả đều phân tích những tổn thất do chiến tranh gây ra về mặt tình yêu
    và tình dục ( .) khi viết về bi kịch cá nhân trong và sau chiến tranh” (Đoàn Cầm Thi
    (29/3/2004), Chiến tranh, tình yêu và tình dục trong văn học Việt Nam đương đại,
    nguồn: Evan.com.vn). Với bài Dục vọng trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến
    1996, Nguyễn Thị Xuân Dung đã khảo sát một số tác phẩm và nhận xét, vấn đề tình
    dục bản năng được đề cập đến để làm sâu sắc hơn sự “lên án, phê phán chiến tranh là
    một thế lực phi nhân tính đã tước đoạt, cướp mất của con người quyền được sống với
    chính những nhu cầu bình thường và thiết yếu của họ” (Nguyễn Thị Xuân Dung
    (28/2/2008), Dục vọng trong tiểu thuyết Việt Nam từ 1986 đến 1996, nguồn:
    Evan.com.vn). Đó là những phát hiện và nhận xét khá mới mẻ so với cách tư duy
    truyền thống.
    Ngô Thảo trong bài "Thử nhìn lại mức độ chân thực của các tác phẩm viết về
    chiến tranh và quân đội" cũng khẳng định không mô tả những chi tiết nặng nề bi thảm
    của chiến tranh là xuyên tạc bộ mặt thật của chiến tranh trong ý thức loài người. Việc
    đào xới sâu vào những góc khuất của hiện thực, dũng cảm nói lên những sự thật có
    thực trong cuộc chiến tranh vừa qua của dân tộc như tâm lí hoang mang, dao động, nỗi
    bi quan, chán nản, sự thương vong, chết chóc đã chứng tỏ nỗ lực cố gắng khắc phục sự
    phiến diện trong cách tiếp cận hiện thực chiến tranh của văn học trước đó. Nỗ lực đổi
    mới hướng tiếp cận hiện thực này được giới phê bình đánh giá cao song đồng thời cũng
    chỉ ra nhiều nhược điểm, hạn chế. Lê Thành Nghị trong bài Tiểu thuyết viết về chiến
    tranh, mấy ý kiến góp bàn cho rằng nhiều tác giả đã có "những nỗ lực quá đà" và "để
    khắc phục sự phiến diện, không phải trước đây viết về anh hùng thì lúc này viết về phi
    anh hùng, trước đây viết về cái tích cực, lúc này viết về cái tiêu cực. Không nên cho
    rằng viết về cái tiêu cực mới là viết về sự thật, mới là "dám" viết sự thật” [135]. Nhận
    xét về hướng khám phá hiện thực của tiểu thuyết chiến tranh nói riêng và văn xuôi viết
    về chiến tranh sau 1975 nói chung, Xuân Thiều một mặt khẳng định đã có những nét
    mới trong cách nhìn nhận đánh giá hiện thực trong chiến tranh trung thực hơn, mạnh
    dạn hơn, song mặt khác cũng thừa nhận bên cạnh những quan điểm đổi mới đích thực
    lành mạnh đã xuất hiện những quan điểm cực đoan, mà nguy hại nhất là quan điểm phủ
    định quá khứ. Cũng một quan điểm như vậy, Hồ Phương nhận định rằng nhiều tác giả
    hôm nay không hề né tránh tất cả sự tàn khốc của chiến cuộc tranh. Viết về những nội

    19
    dung tàn khốc ấy, các tác giả có ước muốn qua đó có thể làm rõ hơn, sống động hơn
    sức chịu đựng, lòng hi sinh của con người, cũng như làm cho cái giá và ý nghĩa của
    chiến thắng được thấy rõ hơn. Viết về sự tàn khốc của chiến tranh là điều cần phải làm,
    nhưng viết như thế nào để không làm mờ mất tính chất của cuộc kháng chiến ấy.
    Những ý kiến quý báu này của giới phê bình có thể nói là có tác dụng định hướng đối
    với văn nghệ sĩ trong việc phản ánh cái bi trong nghệ thuật.
    Ngoài các ý kiến được đăng tải trên báo chí, các tham luận được trình bày
    trong các hội thảo, vấn đề cảm hứng bi kịch trong tiểu thuyết chiến tranh sau 1975
    cũng được đề cập tới rải rác trong các công trình nghiên cứu về văn xuôi giai đoạn
    này, tiêu biểu có thể kể đến luận án Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật sau 1975
    của Tiến sĩ Nguyễn Thị Bình, Tiểu thuyết về chiến tranh trong văn học Việt Nam sau
    1975 - Những khuynh hướng và sự đổi mới nghệ thuật của Nguyễn Thị Thanh. Qua
    các công trình nghiên cứu của mình, các nhà nghiên cứu đều khẳng định có sự xuất
    hiện của cảm hứng bi kịch trong các sáng tác viết về chiến tranh sau chiến tranh ở
    mức độ đậm nhạt khác nhau. Một số đề tài luận văn thạc sĩ nghiên cứu về cái bi trong
    văn học viết về chiến tranh như Cảm hứng bi kịch trong một số tiểu thuyết tiêu biểu
    về chiến tranh sau 1975 của Bùi Thị Hương (2004), Tiểu thuyết về đề tài chiến tranh
    Việt Nam 2004-2008 của Nguyễn Thị Duyên (2009) đã đem đến cho bạn đọc một cái
    nhìn có tính hệ thống về mảng văn học viết về chiến tranh sau chiến tranh với các đặc
    điểm cơ bản và những biến đổi nội tại đặc trưng của nó, khẳng định các giá trị nhân
    bản bền vững vốn là kết tinh của mảng văn học viết về chiến tranh trong những năm
    tháng hoà bình này. Ở mức độ đậm nhạt khác nhau, trên nét lớn có thể thấy một cảm
    hứng chung xuất hiện trong hầu hết các tiểu thuyết viết về thời kì này: cảm hứng bi
    kịch. Luận án tiến sĩ Con người trong tiểu thuyết Việt Nam thời kì đổi mới của
    Nguyễn Thị Kim Tiến cũng đề cập đến vấn đề những thận phận con người dưới cảm
    hứng bi kịch. Luận án Văn xuôi viết về nông thôn trong văn học Việt Nam sau 1975
    của Bùi Quang Trung đã khai thác một số khía cạnh trong bi kịch của người nông dân
    trong một không gian đặc biệt là nông thôn Việt Nam trước và sau đổi mới. Luận án
    Yếu tố trào lộng trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại của Trần Thị Hạnh (2012) đã
    đề cập đến sự song hành của cái bi bên cạnh cái hài như một sắc diện thẩm mĩ rất hữu
    hiệu để phản ánh hiện thực trong văn học. Luận văn thạc sĩ Quan niệm về con người cô
    đơn trong truyện ngắn hiện nay của Lê Thị Hường (2004), Cái bi trong tiểu thuyết của

    20
    Lan Khai của Nguyễn Thị Mai (2010) và Cái bi trong truyện ngắn Việt Nam thời kì
    đổi mới Nhâm Thị Thanh Mai (2012), là những công trình tìm hiểu sự biểu hiện của
    cái bi thẩm mĩ trong truyện ngắn và tiểu thuyết của Việt Nam thời kì đổi mới.
    Về mảng cái bi trong thể loại bi kịch dưới góc độ kịch bản văn học, Phạm
    Vĩnh Cư trong bài Thể loại bi kịch trong văn học Việt Nam thế kỷ XX, Bàn thêm về
    bi kịch Vũ Như Tô đã khái quát đánh giá những thành tựu và đặc điểm của thể loại
    bi kịch trong văn học Việt Nam thế kỷ XX. Phạm Vĩnh Cư đã có những công trình
    nghiên cứu có giá trị giúp chúng ta có một cái nhìn tổng thể về một loại hình rất đặc
    trưng cho cái bi trong nền nghệ thuật ở Việt Nam thế kỷ XX. Tác giả nêu lên hiện
    tượng: Ở phương Tây đã hơn năm thập niên, người ta nói liên tục về cái chết của
    nghệ thuật bi kịch phản ánh những khó khăn trở ngại rất lớn mà loại hình nghệ thuật
    này đang phải đối đầu - những khó khăn trở lực ấy gắn liền với cục diện đổi thay
    của thời đại, với tâm thức, não trạng của con người trong thế giới hôm qua và ngày
    nay. Tác giả làm nổi bật một thực tại nghịch lí không mang tính cục bộ, mà là của
    cả văn học thế giới trong thế kỉ vừa qua: “chính trong thời đại khi mà bi kịch (theo
    đúng nghĩa mĩ - triết của từ ấy) đã trở thành số phận của hàng chục, hàng trăm
    triệu con người trên hành tinh này, đã hoá thân thành hiện thực của những cuộc
    xung đột và những tai biến long trời lở đất, có quy mô toàn cầu - văn học và sân
    khấu thế giới, bất chấp những nỗ lực chủ quan của các văn nghệ sĩ, chưa sáng tạo
    nên được những tác phẩm bi kịch ngang tầm với những trải nghiệm của xã hội loài
    người và giờ đây hình như ngày càng rời xa và chối bỏ nhiệm vụ ấy, y như nó là
    một cái gì đó bất cập đối với nghệ thuật và vượt quá sức cảm hội, trí hội của con
    người nói chung Chỉ riêng bi kịch là không được huy động, không được gọi tên
    trong đội hình văn học - nghệ thuật mới của nước nhà, gây cảm tưởng nó bị bỏ
    quên một cách có chủ ý” [24].
    Nguyễn Huy Tưởng và Lưu Quang Vũ là hai trong số những nhà viết kịch tài
    năng nhất của văn học Việt Nam thế kỉ XX với các tác phẩm tiêu biểu: Vũ Như Tô,
    Hồn Trương Ba, da hàng thịt, Nàng Sita, Bệnh sĩ, Tôi và chúng ta, . Vũ Như Tô là một
    trong không nhiều tác phẩm tâm huyết, “ám ảnh” dai dẳng suốt một đời văn của
    Nguyễn Huy Tưởng. Phạm Vĩnh Cư đã khẳng định và chứng minh rằng Vũ Như Tô là
    tác phẩm bi kịch “duy nhất và đích thực” của Nguyễn Huy Tưởng. Nhà nghiên cứu
    Ðỗ Ðức Hiểu cho in một chuyên luận khá dài Bi kịch Vũ Như Tô. Bằng phân tích
    thẩm mĩ khá tinh vi và tế nhị tác giả dẫn người đọc đến nhận thức về “ý nghĩa vĩnh

    21
    cửu và toàn nhân loại” của câu chuyện bi thảm mà nhà văn Nguyễn Huy Tưởng kể
    bằng ngôn ngữ kịch bản. Phạm Vĩnh Cư trong Bàn thêm về bi kịch Vũ Như Tô, Phan
    Đình Dũng trong Bi kịch vũ Như Tô - xung đột giữa tài năng và hoàn cảnh cũng góp
    phần giúp chúng ta hiểu sâu hơn những vấn đề bi kịch được đặt ra trong tác phẩm
    này. Luận án Bi kịch trong văn học Việt Nam hiện đại: Qua một số tác phẩm tiêu biểu
    của Phạm Thị Chiên đã đi sâu nghiên cứu một số tác phẩm bi kịch tiêu biểu của Việt
    Nam thời hiện đại.
    Nền nghệ thuật đương đại cũng phản ánh những phức tạp bề bộn của cuộc sống,
    thân phận những con người trong bối cảnh kinh tế thị trường đầy sóng gió và những
    thay đổi trong hệ thang giá trị truyền thống. Có thể nói trong giới phê bình nghệ thuật
    tranh luận rất sôi nổi về mảng chủ đề còn ngổn ngang những tranh cãi này.
    Trên góc độ này, tác giả sẽ tiếp túc nghiên cứu để làm rõ thêm khía cạnh mĩ học để
    nhận diện những sắc thái cái bi thẩm mĩ trong văn học Việt Nam sau chiến tranh. Tuy
    nhiên, còn rất nhiều bài viết trên các góc độ, phương diện, lĩnh vực khác nhau nhưng
    người viết chưa có điều kiện đề cập hết trong nội dung này.
    1.3. Tình hình nghiên cứu về giá trị thẩm mĩ của cái bi
    1.3.1. Những công trình nghiên cứu về giá trị thẩm mĩ của cái bi đối với sự phát
    triển của con người và xã hội
    Bi kịch có thể tạo nên những rung động mãnh liệt đến trí tuệ và tâm hồn con người.
    Đây là cơ sở để Aritxtot phát triển học thuyết Katharsis (thanh lọc) của nền triết học Hi
    Lạp cổ đại và được trình bày trong tác phẩm Nghệ thuật thi ca. Luận giải về những cách
    hiểu về tác dụng thanh lọc của cái bi trong lịch sử, Anhikist trong Lí luận kịch từ Aritxtot
    đến Lessin hệ thống hóa và giúp ta hình dung được những các cách tiếp cận để lí giải về
    tác dụng thẩm mĩ của cái bi. Vấn đề tẩy rửa trong thể loại bi kịch nhìn từ phương diện
    tiếp nhận của khán giả và cấu trúc tác phẩm của Phạm Mai Chiên đề cập đến vấn đề
    tẩy rửa trong hiệu ứng bi kịch. Vấn đề tẩy rửa (katharsis) liên quan đến hai đối tượng
    của bi kịch là khán giả và chính nhân vật. Như vậy, vấn đề tẩy rửa đối với nhân vật bi
    kịch đã được đặt trong hệ thống và xem đây là kết quả tất yếu của một quá trình phát
    triển tâm lí tính cách nhân vật bi kịch. Vấn đề giá trị thanh lọc hay tẩy rửa của cái bi
    đã và vẫn đang thu hút rất nhiều sự quan tâm nghiên cứu, chỉ ra khả năng có một
    không hai của văn hóa thẩm mĩ là nằm sâu trong mọi cơ tầng sáng tạo, thúc đẩy sự
    hình thành những hoài bão và lí tưởng thẩm mĩ.

    22
    Hầu hết các giáo trình mĩ học trong và ngoài nước theo quan điểm macxit đều đề cập
    đến vấn đề này. Tuy nhiên, với tính chất là giáo trình, vấn đề mới được nghiên cứu ở hệ
    thống nguyên lí chung chưa được tách ra thành những phần cụ thể, độc lập và chỉ được
    dành một dung lượng rất nhỏ. Vấn đề giá trị thẩm mĩ của cái bi được trình bày rải rác ở
    một số khía cạnh đan xen vào các vấn đề khác đặc biệt là trong các công trình viết về giáo
    dục thẩm mĩ. Có thể kể đến các công trình như: Giáo dục thẩm mĩ - một số vấn đề lí luận
    và thực tiễn, Chân - thiện - mĩ: Sự thống nhất và đa dạng trong văn hoá nghệ thuật của tác
    giả Đỗ Huy; Tuổi trẻ thẩm mĩ của Hoàng Thiệu Khang; Giáo dục thẩm mĩ và xây dựng
    con người mới ở Việt Nam của Lê Anh Trà, Về biện chứng của đời sống thẩm mĩ và nghệ
    thuật của Hoài Lam, và một số bài viết như: Mấy vấn đề giáo dục thẩm mĩ ở lứa tuổi
    thanh niên của Đỗ Huy (Tạp chí Triết học số 4 năm 1982); Một số vấn đề giáo dục thẩm
    mĩ cho thanh niên của Nguyễn Văn Huyên (Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật số 4 năm
    1978); Giáo dục thẩm mĩ và việc định hướng nhu cầu thẩm mĩ của Hồng Mai (Tạp chí
    Triết học số 3 năm 1983); Công chúng và đánh giá tác phẩm nghệ thuật của Hồng Mai
    (Tạp chí Triết học số 4 năm 1990); Cái nhìn song đôi trong việc bình giá tác phẩm nghệ
    thuật của Hồng Mai (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 9/1996); Văn hóa thẩm mĩ và hoạt
    động sáng tạo của con người của Nguyễn Văn Huyên (Tạp chí Triết học số 2/1988); Cấu
    trúc của hình tượng nghệ thuật và sự gợi mở của nó đối với các tiềm năng sáng tạo của
    Nguyễn Văn Huyên (Tạp chí Triết học số 4/1987); Sáng tạo và thưởng ngoạn của Trần
    Hanh (Tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 11/1996), Nguyên lí mĩ học Mác - Lênin của Viện
    Hàn lâm khoa học Liên Xô; Về sự biến đổi của chuẩn mực đánh giá thẩm mĩ trong thời kì
    đổi mới ở Việt Nam của Vũ Thị Kim Dung (2003).
    Lê Ngọc Trà (1988) trong bài viết Về vấn đề văn học phản ánh hiện thực khẳng
    định những tình cảm thẩm mĩ tích cực của cái bi trong nghệ thuật chân chính: “Lúc
    xem phim, đọc sách mà buồn và khóc là lúc người ta trong sáng, cao thượng. Cứ thế,
    nghệ thuật chân chính mỗi lần làm rơi nước mắt con người lại làm cho họ trở nên
    trong sạch hơn, hoàn thiện hơn” [207]. Cẩm nang mĩ học - nghệ thuật - thi ca - phê
    bình là công trình được dịch giả Nguyễn Hoàng Đức tuyển dịch một số công trình
    nghiên cứu mĩ học và triết học, nghệ thuật trên thế giới. Trong tác phẩm này có đề
    cập khá kĩ đến nội dung giá trị thẩm mĩ, trải nghiệm thẩm mĩ đặc biệt là trong nghệ
    thuật để người viết có thể tham khảo trong nhận định về giá trị thẩm mĩ của cái bi.
    Mảng nghiên cứu về giá trị thẩm mĩ của cái bi trong cuộc sống cũng như trong
    nghệ thuật có thể nói là còn nhiều khoảng trống hoặc có những đánh giá chưa đúng

    23
    mức về giá trị của mảng thẩm mĩ này. Thực tế là các công trình nghiên cứu liên quan
    đến mảng này hầu như rất hiếm hoi đặc biệt là vấn đề nâng cao nhận thức về biểu
    hiện cũng như giá trị của cái bi trong hiện thực đời sống. Vốn dĩ vấn đề cái bi thẩm
    mĩ trong hiện thực đời sống thường bị nhìn nhận một cách phiến diện và thiên lệch,
    đồng nhất cái bi với cái xấu xa, tiêu cực, những nỗi đau khổ và mất mát, che lấp đi
    những cảm xúc và giá trị của cái đẹp, cái dũng cảm, can đảm. Cần thiết phải khai thác
    sâu hơn nữa vấn đề nâng cao nhận thức về những giá trị của cái bi thẩm mĩ.
    1.3.2. Những công trình nghiên cứu vấn đề giá trị của sự phản ánh cái bi đối
    với văn học nghệ thuật
    Chúng ta chỉ có thể tìm được trong những khía cạnh nhất định ở các công trình lí
    luận và phê bình văn học ở cách tiếp cận văn học chứ hầu như vắng bóng các công
    trình của các nhà mĩ học với cách tiếp cận, phương pháp luận của mĩ học. Cuốn Kỉ
    yếu Hội thảo Lí luận và phê bình văn học - đổi mới và phát triển của Viện Văn học
    (2005) là nơi hội tụ nhiều bài viết đề cập đến giá trị của mảng thẩm mĩ cái bi trong văn
    học nghệ thuật cũng như những phương hướng, giải pháp để mở đường, phát triển và
    nâng cao giá trị thẩm mĩ, giá trị nghệ thuật của các tác phẩm văn học trong đó có những
    tác phẩm phản ánh mảng cái bi trong văn học Việt Nam hiện nay. Có thể kể đến bài viết
    Xây dựng hệ thống phương pháp luận - một nhiệm vụ cấp bách của lí luận văn học thời
    kì đổi mới của Nguyễn Văn Dân, Truyền cho lí luận văn học linh hồn của chủ nghĩa Mác
    là phép biện chứng của Lã Nguyên, Lí luận văn học trước yêu cầu đổi mới và phát triển
    của Phan Trọng Thưởng, Trên đường đến với tư duy văn học hiện đại của Trương Đăng
    Dung, Hướng tới một nền lí luận năng động, cởi mở, giàu tính khoa học và nhân văn của
    Vũ Tuấn Anh, Lí luận văn học macxit trong bối cảnh toàn cầu hóa tri thức của Trần
    Đình Sử, Suy nghĩ và kiến nghị xung quanh vấn đề đổi mới lí luận văn học của Phạm
    Vĩnh Cư, Điều làm nên sự tiến bộ của văn học Việt Nam đương đại của Đỗ Văn Khang.
    Những công trình nghiên cứu về mặt lí luận và phê bình văn học này là một cơ sở quan
    trọng để có thể định hình những giải pháp nâng cao giá trị thẩm mĩ của sự biểu hiện cái
    bi trong văn học Việt Nam hiện nay.
    1.4. Đánh giá chung về tình hình nghiên cứu và một số vấn đề đặt ra đối với
    luận án
    1. Không khó để chúng ta có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu mĩ học về cái
    bi ở phương Đông khiêm tốn hơn rất nhiều so với ở phương Tây hoặc bị ảnh hưởng chủ
    yếu bởi tư tưởng phương Tây. Luận án trên cơ sở hệ thống hóa các quan điểm về cái bi ở

    24
    phương Đông và phương Tây có sự phân tích, so sánh tìm ra đặc trưng riêng trong quan
    niệm về cái bi ở phương Tây so với phương Đông (trong đó có Việt Nam).
    2. Cách tiếp cận về cái bi trong các sách mĩ học ở ta trước đây và hiện nay vẫn
    chủ yếu tiếp cận trên hệ hình của mĩ học macxit mà thực chất là trực tiếp của các học
    giả Liên Xô trước đây đang ngày càng thể hiện sự đơn giản, một chiều và chật hẹp do
    nhiều lí do như: Thứ nhất, bản thân lí luận mĩ học macxit của ta (trong đó có cái bi)
    chưa tự hiện đại hóa, vận động mạnh mẽ để phát triển theo kịp đời sống, mà vẫn “lẽo
    đẽo theo sau” chứ chưa nói là dẫn đường, mở ra ý nghĩa phương pháp luận cho đời
    sống thẩm mĩ nói chung, văn học nghệ thuật nói riêng. Cách tiếp cận và nội hàm khái
    niệm chưa đủ độ khái quát và chiều sâu để bao chứa những chiều kích của cuộc sống
    rộng lớn, đa sự, phong phú của ngày hôm nay. Thứ hai, trong lí luận mĩ học của ta về
    cái bi chưa có sự giao lưu và tiếp thu thực sự phổ biến và hiệu quả những giá trị của lí
    luận mĩ học đương đại, vẫn khá nghèo nàn và xơ cứng trong việc lí giải bản chất, nội
    dung của cái bi (vẫn nhấn mạnh đến khía cạnh đấu tranh giai cấp, chưa có những lí
    giải sâu về bi kịch cá nhân, của bản thể cái tôi với nhiều góc khuất cần được đề cập
    đến trong xã hội hiện đại).
    3. Bản thân đời sống xã hội và đời sống văn học nghệ thuật thời kì đổi mới đang
    có những chuyển biến mạnh mẽ, rất nhiều công trình lí luận và phê bình văn học
    dùng cách tiếp cận triết học, mĩ học để nhìn nhận, đánh giá, lí giải các biểu hiện của
    cái bi trong đời sống văn học hiện nay. Nhưng rõ ràng là rất thiếu vắng các công
    trình, tiếng nói của bản thân các nhà mĩ học dùng tư duy triết học nghệ thuật của
    mình để nhận diện và định hướng về mặt thế giới quan, phương pháp luận cho sự
    phát triển mạnh mẽ của văn học nghệ thuật hiện nay.
    Cái bi trong hệ thống phạm trù mĩ học, biểu hiện và giá trị thẩm mĩ của nó là
    một lĩnh vực cũng thu hút được khá nhiều sự quan tâm nghiên cứu trong và ngoài
    nước ở nhiều khía cạnh, góc độ và từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên so với các
    phạm trù cơ bản khác của mĩ học thì cái bi vẫn chưa có một vị trí xứng đáng và còn
    nhiều cách hiểu cũng như tranh luận xung quanh phạm trù này. Vì vậy, tác giả mong
    muốn có được một công trình mang tính hệ thống, tiếp thu những thành tựu đã có và
    đứng trên quan điểm của mĩ học Mác - Lênin để làm rõ về phạm trù cái bi với tư cách
    một phạm trù cơ bản trong hệ thống phạm trù mĩ học cũng như biểu hiện của nó trong
    cuộc sống, văn học nghệ thuật Việt Nam và giá trị của nó.

    25
    Chương 2
    CÁI BI TRONG HỆ THỐNG PHẠM TRÙ MĨ HỌC

    Ở mỗi một khoa học đều có hệ thống những khái niệm khoa học của mình. Nội
    dung các khoa học này bộc lộ qua các khái niệm đó và việc nhận thức những phương
    diện nhất định của thực tại mà khoa học này nghiên cứu cũng diễn ra qua đó. Những
    khái niệm khoa học cơ bản phản ánh các phương diện, các quan hệ và thuộc tính
    chung nhất đối với một khoa học nhất định được gọi là các phạm trù. Các phạm trù
    mĩ học chính là những khái niệm mĩ học chung nhất phản ánh những tri thức khái
    quát của con người về những hiện tượng thẩm mĩ được bộc lộ trong quan hệ thẩm mĩ
    giữa con người đối với tự nhiên và xã hội. Cũng như mọi khoa học, mĩ học chỉ có thể
    tồn tại trên cơ sở một hệ thống những phạm trù thẩm mĩ. Lịch sử mĩ học cũng chính
    là lịch sử loài người đi xây dựng cho khoa học mĩ học của mình một hệ thống các
    khái niệm, phạm trù càng ngày càng phong phú, chặt chẽ, sâu sắc và khái quát. Ðó
    cũng là sự biểu hiện của việc mĩ học càng ngày càng tiếp cận được với đối tượng của
    mình. Hệ thống các khái niệm, phạm trù của khoa học này vừa là công cụ để nhận
    thức, vừa là phương tiện để tư duy, mà cũng lại vừa là mục đích ta cần vươn tới. Vì
    rằng, nắm được các khái niệm, phạm trù thì cũng thực chất là nắm được mĩ học.
    Trong số các phạm trù mĩ học, phạm trù rộng nhất là cái thẩm mĩ, trong nó bao gồm
    các phạm trù khách thể cơ bản: cái đẹp, cái cao cả, cái bi, cái hài.
    2.1. Bản chất và nội dung của cái bi
    2.1.1. Quan niệm về cái bi trong các hệ thống mĩ học phương Tây và
    phương Đông
    2.1.1.1. Quan niệm về cái bi trong hệ thống mĩ học phương Tây
    Nói về mĩ học phương Tây Cổ đại thực chất là nói về nền mĩ học Hi Lạp -
    nền tảng quan trọng của mĩ học phương Tây nói chung, mĩ học hiện đại nói riêng.
    Thời Cổ đại, những nguyên tắc dân chủ tiến bộ, độc đáo đầu tiên của Hi Lạp đã
    góp phần quan trọng vào khẳng định về tầm vóc, trí tuệ và tâm hồn, do đó tạo ra
    bản lĩnh cho con người Hi Lạp. Bản lĩnh ấy đem đến một niềm thích thú ngợi ca.
    Và cái đáng ngợi ca nhất là vẻ đẹp của con người. Ở đây, lần đầu tiên, vẻ đẹp toàn
    diện của con người trở thành nguồn cảm hứng chủ yếu của văn học nghệ thuật và
    lí tưởng thẩm mĩ trong sáng. Đây chính là mảnh đất gieo mầm cho sự phát triển
    của lí luận về cái bi mà trước hết là của loại hình bi kịch.
     
Đang tải...