Tiểu Luận Cách thức vận động, phát triển theo quan điểm duy vật biện chứng. Giá trị thực tiễn trong quản lý do

Thảo luận trong 'Triết Học' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    167
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    lời nói đầu

    Thuật ngữ “Biện chứng” có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là Dialektica, có nghĩa là nghệ thuật đàm thoại, tranh luận. Theo nghĩa này, biện chứng là nghệ thuật tranh luận nhằm tìm ra chân lý bằng cách phát hiện các mâu thuẫn trong lập luận của đối phương và nghệ thuật bảo vệ lập luận của mình. Người Hy Lạp cổ đại cho rằng, đã là tri thức đúng thì không thể có mâu thuẫn trong tri thức đó, và quá trình đi tới chân lý là quá trình giải quyết những mâu thuẫn trong lập luận.

    Trong triết học Mác, thuật ngữ “biện chứng” được dung đối lập với “siêu hình”. Đó là lý luận, đồng thời là phương pháp xem xét sự vật trong trạng thái liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau,ràng buộc lẫn nhau và trong quá trình vận động, phát triển không ngừng. Phương pháp đó không chỉ thấy những sự vật cá biệt, mà còn thấy mối liên hệ với nhau giữa chúng; không chỉ thấy sự tồn tại của sự vật, mà còn thấy sự hình thành và tiêu vong của sự vật; không chỉ thấy “cây” mà còn thấy cả “rừng”. Theo Ph.Ăngghen, phương pháp biện chứng “xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc, trong sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng”.

    Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại và từ đó đến nay, lịch sử phát triển của nó đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau, gắn liền với sự phát triển của khoa học và thực tiễn.

    Phép biện chứng duy vật:

    Ph.Ăngghen định nghĩa “Phép biện chứng là là khoa học về sự liên hệ phổ biến” và “Phép biện chứng là môn khoa học nghiên cứu về những quy luật phổ biến của sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, của loài người và tư duy” V.I Lenin viết ”Phép biện chứng, tức là học thuyết của sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện, học thuyết về tính tương đối của nhận thức của con người, nhận thức này phản ánh vật chất luôn luôn phát triển không ngừng”

    Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật với phương pháp biện chứng; giữa lý luận nhận thức với logic biện chứng. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư duy triết học; là phương pháp tư duy khác về chất so với các phương pháp tư duy trước đó; là phương pháp mà điều căn bản là nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau của chúng, trong sự ràng buộc trong sự vận động, sự phát sinh và sự tiêu vong của chúng.

    Phép biện chứng duy vật có khả năng đem lại cho con người tính tự giác cao trong mọi hoạt động. Mỗi luận điểm của phép biện chứng duy vật là kết quả của sự nghiên cứu rút ra từ giới tự nhiên, cũng như lịch sử xã hội loài người. Mỗi nguyên lý, quy luật, phạm trù của phép biện chứng được khái quát và luận giải trên cơ sở khoa học. Chính vì vậy, phép biện chứng duy vật đã đưa phép biện chứng từ tự phát đến tự giác. Theo Ph.Ăngghen, “ Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thong qua những mặt đối lập, tức là những mặt thong qua sự đấu tranh thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng từ mặt này đến mặt kia, tương tự với hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên”.

    Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật:

    Sự phong phú và đa dạng của các sự vật, hiện tượng trong tự nhiên, xã hội, tư duy quy định nội dung phép biện chứng duy vật. Nội dung của phép biện chứng duy vật bao gồm nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển. Đây là những nguyên lý có ý nghĩa khái quát nhất. Các phạm trù, các quy luật cơ bản của phép biện chứng là sự cụ thể hóa các nguyên lý trên. Nghiên cứu và làm sáng tỏ các nguyên lý, các phạm trù, các quy luật cơ bản, đó là nhiệm vụ của phép biện chứng duy vật. Ph.Ăngghen nhấn mạnh ”Vậy là từ trong lịch sử của tự nhiên và lịch sử của xã hội loài người mà người ta đã rút ra được các quy luật của biện chứng. Những quy luật không phải là cái gì khác ngoài những quy luật chung nhất của giai đoạn phát triển lịch sử ấy, cũng như là bản thân của tư duy”

    Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật:

    Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:

    Trong phép biện chứng duy vật, mối liên hệ phổ biến dung để khái quát mối liên hệ, sự tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt, các giai đoạn phát triển của một sự vật, hiện tượng. Cơ sở của mối liên hệ phổ biến là tính thống nhất vật chất của thế giới, theo đó, các sự vật, hiện tượng trong thế giới dù có đa dạng, có khác nhau thế nào đi chăng nữa, thì cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới vật chất duy nhất.

    Các mối liên hệ có tính khách quan, phổ biến và đa dạng, chúng giữ những vai trò khác nhau quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng.trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn, không nêntuyệt đối hóa mối lien hệ nào và cũng không nên tách rời mối lien hệ này khỏi mối liên hệ khác bởi trên thực tế, các mối liên hệ còn phải được nghiên cứu cụ thể trong biến đổi và phát triển của chúng.

    Nghuyên lý về mối liên hệ phổ biến khái quát bức tranh toàn cảnh về thế giới bằng những mối liên hệ chằng chịt giữa các sự vật, hiện tượng của nó. Tính vô hạn trong thế giới khách quan,tính có hạn của sự vật, hiện tượng trong thế giới đó chỉ có thể giải thích được trong mối liên hệ phổ biến và được quy định bằng nhiều mối liên hệ có nhiều hình thức, vai trò khác nhau. Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, con người rút ra được những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

    Nguyên lý về sự phát triển :

    Trong phép biện chứng duy vật, phát triển dùng để khái quát quá trình vận động đi từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Quá trình đó diễn ra dần dần, vừa nhảy vọt làm cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi, hiện tượng mới về chất ra đời. Phát triển là tự thân. Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật, hiện tượng. Phát triển đi theo đường xoáy ốc, cái mới dường như lặp lại một số đặc trưng, đặc tính của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn; thể hiện tính quanh co, phức tạp, có thể có những bước thụt lùt tương đối trong sự phát triển.

    Phát triển là một trường hợp đặc biệt của vận động. Trong quá trình phát triển, sự vật, hiện tượng chuyển hóa sang chất mới cao hơn, phức tạp hơn; làm cho cơ cấu tổ chức, phương thức vận động và chức năng của sự vật ngày càng hoàn thiện hơn. Phát triển có tính khách quan, phổ biến rất đa dạng. Từ nguyên lý phát triển, con người có thể rút ra được những quan điểm, nguyên tắc chỉ đạo hoạt động nhận thức, hoạt động thực tiễn.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...