Thạc Sĩ Cách mạng T8 là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân ta dưói sự lãnh đạo của Đảng

Thảo luận trong 'THẠC SĨ - TIẾN SĨ' bắt đầu bởi Phí Lan Dương, 17/11/13.

  1. Phí Lan Dương

    Phí Lan Dương New Member
    Thành viên vàng

    Bài viết:
    18,524
    Được thích:
    18
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    Tiểu luận dài 9 trang: Cách mạng T8 là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân ta dưói sự lãnh đạo của Đảng
    Phải nói chủ nghĩa xã hội ra đời trên nền tảng của chủ nghĩa Mac_Lênin. Sự có mặt của nó đại diện cho một xã hội tốt đẹp ,hay nói cụ thể hơn là một xã hội nhân đạo, xã hội mà : “Mỗi người sinh ra đều có quyền bình đẳng, tạo hoá cho họ những quyền mà không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy có quyền được sống ,quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Đó là những lời của Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập trong bản tuyên ngôn độc lập ngày 2-9-1945. Chính vì thế mà hơn 2/3 thế kỷ vừa qua, đất nước Việt Nam đã và đang tiếp tục đi theo con đường xã hội chủ nghĩa. Đảng thành lập đánh dấu sự ra đời của phương pháp đấu tranh khoa học, lịch sử đã chứng minh điều đó. Chúng ta đã đạt được những thành quả ngày hôm nay là do công sức đấu tranh gian khổ của nhân dân cả nước dưới sự soi đường chỉ lối của Đảng. Đặc biệt là cách mạng tháng Tám năm 1945 - một trong những phong trào cách mạng Việt Nam do Đảng lãnh đạo. Cuộc cách mạng tất yếu phải tiến hành nhưng điều cốt yếu là sớm hay muộn. Nhờ có sự chuẩn bị lực lượng chu đáo, lại nổ ra đúng thời cơ nên cách mạng tháng Tám đã giành thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu. Chỉ trong vòng 15 ngày, cuộc tổng khởi nghĩa đã thành công. Làn đầu tiên trong lịch sử, chính quyền cả nước về tay nhân dân.
    Cách mạng tháng Tám là kết quả và đỉnh cao của 15 năm đấu tranh của toàn dân ta dưói sự lãnh đạo của Đảng, mà trực tiếp là phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945. Trong quá trình đó, Đảng đã xây dựng được một lực lượng vũ trang nhân dân, được nhân dân nuôi dưỡng và đùm bọc, có chỗ đứng chân ngày càng vững chắc trong căn cứ địa cách mạng, giữ vai trò nòng cốt, xung kích, hỗ trợ cho quần chúng nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền. Đảng cộng sản tổ chức và lãnh đạo cuộc cách mạng tháng Tám. Đảng có đưòng lối cách mang đúng đắn, dày dạn kinh nghiệm chiến đấu, bắt rễ sâu trong quần chúng, đoàn kết và quyết tâm tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự lãnh đạo của Đảng là điều kiện cơ bản nhất, quyết định thắng lợi của cuộc cách mạng. Đảng đặt quyền lợi của cách mạng, của nhân dân lên trên hết. Đã biết bao nhiêu người đã đem xương máu của mình vun tưới cho cây cách mạng, cho cây cách mạng ra hoa, kết trái tốt đẹp như ngày nay.
    Cách mạng tháng Tám là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình do Đảng cộng sản lãnh đạo, lần đầu tiên giành thắng lợi ở một nước thuộc địa. Với thắng lợi này, nhân dân Việt Nam đã đập tan xiềng xích nô lệ của chủ nghĩa đế quốc, lập nên nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nhà nước do nhân dân lao động làm chủ. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở thành người dân tự do, độc lập và làm chủ vận mệnh của mình. Nước ta từ một nước thuộc địa trở thành một nước độc lập, tự chủ. Đảng cộng sản Việt Nam từ chỗ phải hoạt động bí mật, không hợp pháp trở thành một Đảng cầm quyền và hoạt động công khai. Với thắng lợi này, “chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà những dân tộc bị áp bức khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt trong lịch sử tiến hoá của dân tộc Việt Nam, mở ra kỷ nguyên mới của lịch sử dân tộc- kỷ nguyên của độc lập tự do mà ở đó mà nhân đạo được đề cao hơn nhiều.
    Về mặt quốc tế, cách mạng tháng Tám thắng lợi đã chọc thủng một khâu quan trọng trong hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, mở đầu thời kỳ suy thoái và tan rã không gì cứu vãn nổi của chủ nghĩa thực dân cũ, góp phần cống hiến lớn lao vào sự nghiệp giải trừ chủ nghĩa thực dân và giải phóng dân tộc trên thế giới.
    Ngoài ra cách mạng tháng Tám còn là thắng lợi của tư tưởng độc lập tự do của Hồ Chí Minh và đường lối giải phóng dân tộc đúng đắn, sáng tạo của Đảng. Nó chứng tỏ rằng: ở thời đại chúng ta, một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc do giai cấp công nhân lãnh đạo hoàn toàn có khả năng thắng lợi ở một nước thuộc địa.
    15 năm lớn lên và trưởng thành của Đảng cũng là 15 năm đấu tranh gian khổ, quyết liệt để dẫn đến cách mạng tháng Tám thành công. Chúng ta chia khoảng thời gian này thành 4 giai đoạn: giai đoạn thứ nhất 1930-1931, giai đoạn thứ hai 1932-1935, giai đoạn thứ ba 1936-1939, và giai đoạn 1939-1945. Trong mỗi giai đoạn đó, sự chuẩn bị của Đảng và Hồ Chủ Tịch có những cách thức khác nhau nhưng sự chuẩn bị trực tiếp đẻ dẫn đến thành công là giai đoạn thứ tư 1939-1945, tuy vậy, vai trò của 3 giai đoạn trước cũng rất quan trọng.
    Mấy chục năm đầu thế kỷ XX, các cuộc vận động chống Pháp cứu nước của nhân dân liên tiếp bị dìm trong bể máu. Phong trào bế tắc chưa xác định được đường lối đúng đắn. Giữa lúc đó, Nguyễn Tất Thành (Tức Hồ Chủ Tịch) đã rời Tổ Quốc ra đi, bôn ba khắp năm châu bốn biển, xem xét tình hình, nghiên cứu lý luận và kinh nghiệm của cách mạng Mỹ, cách mạng Pháp. Người tham gia lao động và tham gia đấu tranh trong hàng ngũ giai cấp công nhân và nhân dân lao động nhiều nước. Người đã nhận thức được rằng: chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới, là kẻ thù trực tiếp nguy hại nhất của nhân dân các nước thuộc địa, để đánh bại chủ nghĩa thực dân chỉ có con đường duy nhất là bạo lực cách mạng. Người chỉ ra rằng: cần phải có một tổ chức lãnh đạo đúng đắn và phải có học thuyết cách mạng - học thuyết Mác Lênin, và phải biết vận dụng đúng đắn học thuyết đó vào Việt Nam. Để chuẩn bị cho việc thành lập Đảng cộng sản, Người đã chuẩn bị về mặt tư tưởng và chính trị. Người đã viết bài cho các báo: “Người cùng khổ”, “Nhân đạo” và một số tạp chí thư tín của quốc tế cộng sản. Về mặt tổ chức, Người đến Quảng Châu và tham gia thành lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức Á Đông, đẻ thống nhất hành động chống chủ nghĩa thực dân. Tháng 6-1925, Người thành lập “Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội” với nòng cốt là Cộng sản đoàn, để trực tiếp truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin vào Việt Nam, mở nhiều lớp huấn luyện đào tạo cán bộ cách mạng. Ở việt Nam lúc đó có 3 tổ chức Đảng được thành lập và hoạt động riêng rẽ. Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị thành lập Đảng từ ngày 3 đến ngày 7 tháng 2 năm 1930 tại Cửu Long (Hương Cảng) và thành lập Đảng cộng sản Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc đã trực tiếp thảo ra chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt và điều lệ vắn tắt làm tiền đề cho hoạt động của Đảng. Nội dung của cương lĩnh tóm tắt đường lối chiến lược của cách mạng trên cơ sở phân tích tình hình kinh tế, giai cấp, xã hội nước ta. Nhiệm vụ của cách mạng ở nước ta là đánh đuổi đế quốc Pháp xâm lược và đánh đổ bọn tay sai, làm cho nước Việt Nam được độc lập Lực lượng để đánh đổ đế quốc và phong kiến trước hết là công – nông. Đồng thời “phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nông để kéo họ về phía giai cấp vô sản”. Cách mạng Việt Nam là moọt bộ phận của cách mạng thế giới, phải đoàn kết với các dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản quốc tế, nhất là giai cấp công nhân Pháp. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng.
    Từ khi thành lập Đảng, thời kỳ cách mạng ở trong tình trạng “đen tối như không có đường ra” và thời kỳ bế tắc, và khủng hoảng về đườn lối cứu nước đã chấm dứt.
    Kể từ cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930), thực dân Pháp tiến hành khủng bố khắp nơi, gây nên một không khí chính trị căng thẳng, mâu thuẫn giữa dân tộc ta với đế quốc Pháp và bè lũ tay sai trở nên gay gắt hơn. Điều đó đẩy nhân dân ta tiến hành đấu tranh mạnh mẽ, quyết liệt hơn với kẻ thù. Giữa lúc đó, Đảng đã xây dựng được hệ thống tổ chức thống nhất và cương lĩnh chính trị đúng đắn, đảm nhiệm sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng. Đảng đã nhanh chóng phát triển tổ chức cơ sở của mình trong nhiều nhà máy, xí nghiệp, khu mỏ, đồn điền ở nông thôn và thành phố. Những tổ chức quần chúng của Đảng như công hội, nông hội, đoàn thanh niên cộng sản, hội phụ nữ, hội cứu tế được xây dựng ở nhiều nơi. Dưói sự thống nhất của Đảng, phong trào đấu tranh của quần chúng đã phát triển và vùng lên mạnh mẽ khắp 3 miền. Hình thức đấu tranh ở giai đoạn 1930-1932 là truyền đơn, mít tinh, bãi công, biểu tìn, tuần hành
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...