Tài liệu Các văn bản, tư liệu phục vụ học và làm tiểu luận: môn quản lý nhà nước, chương trình chuyên viên

Thảo luận trong 'Công Chức' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    CHUYÊN ĐỀ 1:
    NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHÀ NƯỚC CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM

    Tài liệu tham khảo: - Hiến pháp năm 1992 (SĐ, BS năm 2001)
    - Luật Tổ chức Quốc Hội (2002)
    - Luật Tổ chức Chính phủ (2002)
    - Luật Tổ chức HĐND và UBND(2003)
    - Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (2002)
    - Luật Tổ chức Viện Kiểm Sát nhân dân(2002).

    1. Nguồn gốc và bản chất của Nhà nước
    1.1. Sự ra đời của nhà nước
    Về sự xuất hiện của nhà nước, từ trước tới nay có nhiều quan niệm khác nhau.
    Thuyết thần học là thuyết cổ điển nhất về sự xuất hiện nhà nước, cho rằng Thượng đế là người sáng lập và sắp đặt mọi trật tự trên trái đất, trong đó có nhà nước. Nhà nước do Thượng đế sáng tạo, thể hiện ý chí của Thượng đế thông qua người đại diện của mình là nhà vua. Do đó việc tuân theo quyền lực của nhà vua là tuân theo ý trời, và nhà nước tồn tại vĩnh cửu.
    Những nhà tư tưởng theo thuyết gia trưởng cho rằng nhà nước là kết quả của sự phát triển gia đình, là hình thức tổ chức tự nhiên của cuộc sống con người. Vì vậy, cũng như gia đình, nhà nước tồn tại trong mọi xã hội và quyền lực nhà nước về bản chất cũng giống như quyền gia trưởng của người chủ trong gia đình.
    Trong thời kỳ phục hưng xuất hiện các quan niệm mới về sự xuất hiện của nhà nước, trong đó nổi bật nhất là thuyết khế ước xã hội. Những người theo học thuyết này cho rằng sự xuất hiện của nhà nước là kết quả của một khế ước (hợp đồng) được ký kết giữa những con người sống trong trạng thái tự nhiên, không có nhà nước. Nhà nước phản ánh lợi ích của các thành viên trong xã hội, chủ quyền nhà nước thuộc về nhân dân. Trong trường hợp nhà nước không giữ được vai trò của mình, các quyền tự nhiên bị vi phạm thì nhân dân có quyền lật đổ nhà nước và ký kết khế ước mới.
    Học thuyết Mác- Lênin coi nhà nước là một hiện tượng xã hội có quá trình phát sinh, tồn tại, phát triển và tiêu vong mang tính tất yếu lịch sử. Nhà nước nảy sinh từ xã hội, là sản phẩm có điều kiện của xã hội loài người, chỉ xuất hiện khi xã hội đã phát triển đến một trình độ nhất định. Những luận điểm quan trọng trên được P. Ăngghen trình bày một cách hệ thống, khoa học trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và của nhà nước” và sau này được V.I. Lênin phát triển trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”.
    Theo học thuyết Mác-Lênin, trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, cơ sở kinh tế là chế độ sở hữu công cộng đối với tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Cơ sở xã hội là tổ chức thị tộc được hình thành dựa trên yếu tố huyết thống. Trong điều kiện đó xã hội loài người chưa có nhà nước mà chỉ có các tổ chức mang tính tự quản của cộng đồng. Nhà nước ra đời là kết quả của sự phát triển nội tại của các mâu thuẫn xã hội. Tiền đề kinh tế cho sự ra đời của nhà nước là chế độ tư hữu tài sản. Tiền đề xã hội làm xuất hiện nhà nước là sự phân chia xã hội thành những giai cấp, tầng lớp xã hội có lợi ích cơ bản đối lập nhau tới mức không thể điều hoà được.
    Ở Việt Nam, sự xuất hiện của nhà nước có một số đặc trưng riêng. Đặc trưng chế độ tư hữu ở Việt Nam là tư hữu về tư liệu sinh hoạt và một phần tư liệu sản xuất, còn đất đai thuộc sở hữu công cộng, sau chuyển thành sở hữu của nhà nước. Đặc điểm này làm cho quá trình phân hoá giai cấp diễn ra chậm và không sâu sắc trong xã hội. Các tầng lớp trong xã hội dần dần hình thành nhưng sự khác biệt giữa họ không lớn, mâu thuẫn không quá gay gắt. Do đặc điểm của nền văn minh lúa nước và điều kiện tự nhiên của Việt Nam đòi hỏi có sự cố kết cộng đồng dân cư để giải quyết nhu cầu thuỷ lợi và thực hiện công tác trị thuỷ đối với các con sông. Mặt khác, do vị trí địa lý của Việt Nam nằm trên đường giao lưu Bắc- Nam, cản trở con đường bành trướng của các dân tộc người có số lượng đông ở phía Bắc xuống phía Nam. Vì vậy, nhu cầu tổ chức lực lượng chống ngoại xâm trở nên bức thiết, cần hợp nhất cộng đồng, thống nhất lực lượng và có bộ máy quản lý thống nhất. Bộ máy đó là mầm mống của một nhà nước sau này. Trong giai đoạn đầu, nó chủ yếu làm các chức năng xã hội. Tuy nhiên, cùng với quá trình phân hoá giai cấp không ngừng trong xã hội, dần dần nó trở thành bộ phận độc lập với xã hội, trở thành bộ máy chủ yếu nhằm thực hiện ý chí và bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị trong xã hội.
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...