Tiểu Luận các trường hợp miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004

Thảo luận trong 'Các Môn Khác' bắt đầu bởi Thúy Viết Bài, 5/12/13.

  1. Thúy Viết Bài

    Thành viên vàng

    Bài viết:
    198,891
    Được thích:
    173
    Điểm thành tích:
    0
    Xu:
    0Xu
    MUC LỤC
    A.MỞ BÀI
    B. NỘI DUNG
    1. Phần lý luận chung.
    1.1. Bản chất và cơ sở của trường hợp miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm
    1.2. Những quy định của pháp luật về trường hợp miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranhbị cấm.
    2. nội dung cụ thể về trường hợp miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm.
    2.1. miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
    2.1.1. Chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển
    2.1.2. Chiến lược xây dựng các tiêu chuẩn chung về sản phẩm và các điều kiện kinh doanh.
    2.1.3. chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh
    2.2. trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm.
    2.2.1 Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản
    2.2.2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.
    C. KẾT LUẬN
    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    A. MỞ BÀI
    Trên thương trường, cạnh tranh lành mạnh là yếu tố thúc đẩy hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp theo chiều hướng tốt lên, tạo tiền đề cho sự phát triển của kinh tế - xã hội. tuy nhiên trong quá trình kinh doanh, các doanh nghiệp luôn tìm cho mình những cách thức hoạt động sao cho họ thu được nhiều lợi nhuân nhất và giữ thì phần nhiều nhất, lấn át những đối thủ cạnh tranh trên thị trường liên quan. Với tham vọng đó, các doanh nghiệp đôi khi thực hiện những hành vi gây hạn chế cạnh tranh. Những hành vi nay khi vượt quá ngưỡng do pháp luật quy định như nó ngăn cản, kìm hãm hay loại bỏ các doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường hay phát triển kinh doanh, gây ảnh hưởng đến lợi ích của nhiều người tiêu dùng thì sẽ trở thành những hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm. Như vậy mục đích cuối cùng của việc quy định này là cấm những hành vi thiếu tích cực đế sự phát triển chung của xã hội, đến lợi ích chung của đại bộ phận người tiêu dùng. Với mục đích như vậy, pháp luật Việt Nam cũng quy định trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận cạnh tranh bị cấm tại Điều 10, Luật cạnh tranh 2001. Để hiểu hơn về bản chất, nội dung cũng như tác động thực sự của những trươn hợp này tới sự phát triển kinh tế, xã hội, em xin trình bày về đề bài “ các trường hợp miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo Luật cạnh tranh 2004
    B. NỘI DUNG
    1. Phần lý luận chung.
    1.1. Bản chất và cơ sở của trường hợp miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm
    Trước khi đi vào các quy định cụ thể của miễn trừ đối với hạn chế cạnh tranh bị cấm ta tìm hiểu về bản chất của cơ chế miễn trừ này. Cơ chế miễn trừ được đặt ra khi phân tích bản chất kinh tế. Thực tê có nhiều trường hợp đã cấu thành hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm theo quy định của pháp luật song xét bản chất của những hành vi này lại chứa đựng tác dụng tích cực cho sự phát triển của kinh tế - xã hội, đặc biệt là có lợi cho người tiêu dùng. Tuy nhiên các hành vi hạn chế cạnh tranh được miễn trừ không mặc nhiên được thực hiện khi thỏa mãn các điều kiện do luật định về mặt nội dung mà phải có được quyết định cho hưởng miễn trừ của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền.
    Thủ tục miễn trừ mang bản chất của thủ tục hành chính được thực hiện theo quy định của pháp luật cạnh tranh. Nó không có giá trị vĩnh viễn mà chỉ có giá trị trong một thời hạn nhất định hoặc có thể được xem xét lại và có thể bị bãi bỏ theo quy định của pháp luật. Vậy pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về hạn chế cạnh tranh và miễn trừ đối với những trường hợp hạn chế cạnh tranh bị cấm
    Cơ sở pháp lý cho việc miễn trừ trách nhiệm cho các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là Quyền tự do kinh doanh, tức là quyền được khế ước và lập hội.
    Cơ sở thực tiễn là sự cân xứng về các lợi ích mà pháp luật bảo vệ. Dưới góc độ tác động đối với cạnh tranh, các thỏa thuận luôn có tính hai mặt. Theo đó, ngoài những khả năng gây hại cho cạnh tranh, nhiều thỏa thuận không có khả năng gây hại, hay bên cạnh khả năng làm giảm cạnh tranh, nhiều thoả thuận còn đem lại nhiều tác dụng tích cực cho sự phát triển của thị trường. Trong nhiều trường hợp mặt tích cực của những cạnh tranh ấy trội hơn so với những hạn chế mà nó đem lại. với thực tế như vậy Nhà nước ta luôn đảm bảo sự hợp lý nhất và có lợi nhất cho xã hội cũng như người tiêu dùng.
    1.2. Những quy định của pháp luật về trường hợp miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranhbị cấm.
    Khoản 3, Điều 3 đưa ra khái niệm về hành vi hạn chế cạnh tranh như sau: “Hành vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường, bao gồm hành vi thoả thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền và tập trung kinh tế.”. Trường hợp miễn trừ đối vơi hành vi cạnh tranh bị cấm chi đặt ra đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm và tập trung kinh tế bị cấm. cụ thể quy định như sau:
    Các quy định về Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh được thể hiện tại mục 1, Chương 2, Luật cạnh tranh 2001 Trong đó khoản 1, điều 10 quy dịnh về trường hợp miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm như sau:
    “Thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại khoản 2 Điều 9 của Luật này được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng một trong các điều kiện sau đây nhằm hạ giá thành, có lợi cho người tiêu dùng:
    a) Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh;
    b) Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ;
    c) Thúc đẩy việc áp dụng thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;
    d) Thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá;
    đ) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa;
    e) Tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế”
    Khoản 2, điều 9 quy định: “ Cấm các thoả thuận hạn chế cạnh tranh quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 8 của Luật này khi các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên.”. Như vậy các thỏa thuận sau là đối tượng có thể được hưởng miễn trừ:
    - Thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp;
    - Thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ;
    - Thoả thuận hạn chế hoặc kiểm soát số lượng, khối lượng sản xuất, mua, bán hàng hoá, dịch vụ;
    - Thoả thuận hạn chế phát triển kỹ thuật, công nghệ, hạn chế đầu tư;
    - Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ hoặc buộc doanh nghiệp khác chấp nhận các nghĩa vụ không liên quan trực tiếp đến đối tượng của hợp đồng.
    Các trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm quy định tại Điều 19, LCT 2004: “Tập trung kinh tế bị cấm quy định tại Điều 18 của Luật này có thể được xem xét miễn trừ trong các trường hợp sau đây:
    1. Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản;
    2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.”
    2. nội dung cụ thể về trường hợp miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm.
    2.1. miễn trừ đối với thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm
    Các thỏa thuận nêu theo quy định tại Điều 9 sẽ được hưởng miễn trừ nếu như chúng được thực hiện nếu đáp ứng một trong các điều kiện quy định tại Điều 10 nhằm hạ giá thành và đem lại lợi ích cho người tiêu dùng. Với những nội dung đó, ta có thể phân chia thành 3 loại hình chiến lược trong kinh doanh: chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển, chiến lược xây dựng các tiêu chuẩn chung về sản phẩm và các điều kiện kinh doanh, chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh .
    2.1.1. Chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển
    Chiến lược liên doanh và hợp tác phát triển giữa các doanh nghiệp được thực hiện để nhằm mục đích sau:
    - Hợp lý hoá cơ cấu tổ chức, mô hình kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh;
    - Thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá, dịch vụ.
    Thực tế, các doanh nghiệp bên cạnh việc là đối thủ cạnh tranh của nhau, đôi khi họ cò thể liên kết lại để có thể cạnh tranh tốt hơn trên thị trường. Việc hợp tác, này giúp các doanh nghiệp có thể hỗ trợ nhau phát huy thế mạnh và hạn chế những yếu điểm của từng thành viên tham gia thỏa thuận để nâng cao khả năng kinh doanh từ đó có vị thế hơn trên thương trường. Sự bổ trợ đó thường đem lại hiệu quả cho sự phát triển của từng doanh nghiệp và cho cả thị trường liên quan vì bao giờ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả sẽ kéo theo nhiều hệ quả có lợi khác cho bản thân dnah nghiệp đó và cho cả người tiêu dùng như chất lượng sản phẩm được nâng cao, giá thành sản phẩm có thể giảm, thực hiện nhiều trương chình khuyến mại có lợi cho người tiêu dùng, hay thậm chí những doanh nghiệp này có thể mở nhiều hiện diện thể nhân của mình ở những vùng còn khó khăn để phục vụ nhu cầu tiêu dùng của người dân.
    Sự hợp tác này có thể diễn ra với nhiều dạng khác nhau. Có thể là giữa các công ty có những thế mạnh khác nhau trong sản xuất và phân phối sản phẩm, kết hợp lại nhằm tăng hiệu quả kinh doanh ví dụ như hai doanh nghiệp cùng cạnh tranh trên thị trường, trong đó một doanh nghiệp có chất lượng sản phẩm tốt nhưng mạng lưới phân phối kém có thể phối hợp với doanh nghiệp có sản phẩm với chất lượng trung bình nhưng lại có mạng lưới phân phối hiệu quả. Hay như việc kết hợp đầu tư của 3 công ty: MEKONG LLC, MEKONG NAG, Vinanfins trong lĩnh vực tư vẫn kiểm toán và đầu tư. Trong đó, Vinanfins là một công ty cổ phần có nhiều kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực đầu tư tài chính, chứng khoán, có hệ thống khách hàng lớn, đa dạng và tiềm lực tài chính. Hội đồng quản trị của Vinafins là các doanh nhân hoạt động lâu năm trong lĩnh vực tài chính, đã từng đảm nhiệm các vị trí lãnh đạo của các định chế tài chính lớn; còn MEKONG NAG có đội ngũ chuyên gia có nhiều kinh nghiệm trong đó có nhiều cán bộ đã từng làm việc tại các công ty tư vấn và kiểm toán quốc tế Big4. Với những thế mạnh này, 3 công ty sã bù đắp cho nhau những hạn chế nhằm đẩy mạnh hiệu quả hoạt động, mang lại lợi ích cho xã hội và khách hàng trong lĩnh vực tư vấn, kiểm toán và đầu tư.
    Sự hợp tác này có thể là hợp tác phát triển và thực hiện các công trình nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật có liên quan mà nếu như làm một mình sẽ khó đạt được kết quả như mong muốn. Trường hợp này thường xảy ra với những ngành kinh tế kỹ thuật đòi hỏi công nghệ có trình độ cao như chế tạo máy bay, khoa học viễn thông

    2.1.2. Chiến lược xây dựng các tiêu chuẩn chung về sản phẩm và các điều kiện kinh doanh.
    Chiến lược này thường bao gồm hai nội dung là:
    - Thỏa thuận giữa các doanh nghiệp nhằm thống nhất các tiêu chuẩn chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm;
    - Thỏa thuận thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán nhưng không liên quan đến giá và các yếu tố của giá
    Trước hết ta nhận xét, các tiêu chuẩn về chất lượng, định mức kỹ thuật của chủng loại sản phẩm hoặc các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán (không liên quan đến giá và các yêu tố của giá) có thể làm hạn chế cạnh tranh giữa những người tham gia thỏa thuận, hay làm cho những doanh nghiệp không đáp ứng đủ các tiêu chuẩn đó phải rời khỏi thị trường, thậm chí còn có thể sinh ra những rào cản cho sự gia nhập đối với những doanh nghiệp mới thành lập. Tuy nhiên, các thỏa thuận trên nhìn chung vẫn có lợi cho người tiêu dùng và có thể làm cho thị trường hoạt động một cách có hiệu quả hơn. Thật vậy, theo các nhà hoạch định chính sách cạnh tranh của Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thì các thỏa thuận đặt ra tiêu chuẩn cho sản phẩm và cho hoạt động kinh doanh đem lại lợi ích nhiều hơn so với thiệt hại mà chúng gây ra vì làm giảm cạnh tranh. Để hiểu hơn ta phân tích nó ở hai góc độ:
    Một là việc đặt ra các tiêu chuẩn cho sản phẩm sẽ có lợi rất nhiều cho xã hội nếu những tiêu chuẩn đó là tiến bộ và nó phản ánh sự đi lên trong công nghệ, kỹ thuật, chất lượng và trình độ kinh doanh. Khi đó thị trường sẽ có được một mặt bằng về sản phẩm có chất lượng tốt theo như những tiêu chuẩn đã đặt ra, đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng, đồng thời sẽ loại bỏ những sản phẩm kém chất lượng trên thị trường. Mặt khác, với việc đặt ra những tiêu chuẩn như vậy người tiêu dùng sẽ có thêm nhiều thông tin làm cơ sở để đưa ra các quyết định chính xác hơn về sản phẩm mà họ dự định mua. Điều này sẽ đạt được lợi ích tối ưu nếu đó là những thỏa thuận về tiêu chuẩn liên quan đến sức khoẻ và an toàn.
    Hai là, Các tiêu chuẩn về sản phẩm còn có ý nghĩa là động lực thúc đẩy doanh nghiệp ứng dụng hiệu quả tiến bộ kỹ thuật vào đời sống kinh doanh. Đố là hệ quả dĩ nhiên. Để có được một sản phẩm với những tiêu chuẩn tiến bộ như vậy đòi hỏi các doanh nghiệp phải bắt kịp tiến bộ công nghệ kỹ thuật. việc ứng dụng này làm cho chất lượng sản phẩm tốt lên, giảm chi phi hơn.
    Ba là việc thống nhất các điều kiện kinh doanh, thanh toán giữa các doanh nghiệp trên cùng một thị trường có ý nghĩa trong việc cải tiến trình độ quản lý kinh doanh của họ, đặc biệt với những lĩnh vực hoặc ngành nghề đang trong giai đoạn hình thành và phát triển. Sự thống nhất các điều kiện kinh doanh và thanh toán có thể tạo ra những chuẩn mực trong kinh doanh của ngành nghề để từ đó hình thành nên các tập quán tốt đẹp cho hoạt động sản xuất, mua bán trên thị trường đó,đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp và cho khách hàng của họ.
    Một vấn đề cần quan tâm khi thỏa thuận thống nhất về điều kiện thương mại đó là không được hủy hoại cạnh tranh, đặc biệt là cạnh tranh về giá và các yếu tố của giá. Theo quy định tại Điêm d, Khoản 1, Điều 10 thì việc thỏa thuận thống nhất các điều kiện kinh doanh, giao hàng, thanh toán không được liên quan đến giá và các yếu tố của giá. Tức à, các doanh nghiệp khi thiết lập và thực hiện thỏa thuận vẫn còn là đối thủ cạnh tranh của nhau về giá, về các yếu tố của giá.
    2.1.3. chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh
    Chiến lược nâng cao năng lực cạnh tranh được Luật Cạnh tranh dự liệu theo hai tiêu chí:
    Thứ nhất, tăng cường năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhỏ và vừa. Doanh nghiệp vừa và nhỏ được quy định tại Điều 3 Nghị định số 56/2009/NĐ-CP của Chính phủ về việc trợ giúp phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hiện cả nước hiện có trên 500.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm tới 98% số lượng doanh nghiệp với số vốn đăng ký lên gần 2.313.857 tỷ đồng (tương đương 121 tỷ USD) (1). Dù mức vốn này có tăng nhưng nhìn chung vẫn là một con số thấp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là những doanh nghiệp yêu thế hơn trên thị trường, với quy mô nhỏ, vốn thấp, trình độ công nghệ lạc hậu, kỹnăng quản lý yếu, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm bản thân hoặc gia đình, thiếu thông tin thị trường nên khả năng tiếp cận thị trường trong nước và quốc tế đều khó khăn dẫn đến chất lượng sản phẩm thường thấp hơn so với các hàng hoá của các doanhh nghiệp lơn trong nước và hàng hóa nhập khẩu.
    Ở Việt Nam, v[1]ới quan điểm và nhu cầu xây dựng một nền kinh tế “phát triển nhanh, hiệu quả và bền vừng, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Phát huy mọi nguồn lực để phát triển nhanh và có hiệu quả những sảnphẩm, ngành, lĩnh vực mà nước ta có lợi thế, đáp ứng nhu cầu trong nước và đẩy mạnh xuất khẩu, không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước”(2), thì việc nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp là cần thiết để tạo nên nội lực cho sự phát triển chung của thị trường. Trong đó việc giành những quy chế hỗ trợ phát triển cho doanh nghiệp vừa và nhỏ là cần thiết. Vì lẽ đó, với các thỏa thuận hướng đến phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ luôn được Nhà nước quan tâm thừa nhận và tạo điều kiện cho chúng thực hiện hiệu quả.
    Thứ hai, các thỏa thuận nhằm tăng cường sức cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường quốc tế. Quan điểm của hầu hết các nước trên thế giới đều mong muốn hội nhập với thế giới về mọi mặt, trong đó có cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên trình độ phát triển của mỗi quốc gia là khác nhau nên sức cạnh tranh là khác nhau. Việt Nam là một nước đang phát triển nên việc tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế là cần thiết. Để thực hiện yêu cầu đó, bên cạnh việc tạo lập các biện pháp bảo vệ cho sản xuất nội địa như một yêu cầu tất yếu của quá trình hội nhập, còn cần phải nỗ lực xây dựng và phát triển nội lực. Vì vậy mà mọi nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc nâng cao khả năng kinh doanh, khả năng cạnh tranh khi tham gia vào thị trường quốc tế cần được Nhà nước và pháp luật thừa nhận nếu những nỗ lực đó không gây hại cho nền kinh tế nội địa và không vi phạm pháp luật, tập quán của thươ[2]ng mại quốc tế. Có như vậy, hội nhập kinh tế quốc tế mới có khả năng thực hiện hiệu qủa.


    2.2. trường hợp miễn trừ đối với tập trung kinh tế bị cấm.
    2.2.1 Một hoặc nhiều bên tham gia tập trung kinh tế đang trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản
    “Bị giải thê” có nghĩa là làm ăn thua lỗ, có nguy cơ bị phá sản và theo quy định tại Điều 36, khoản 1, Nghị định 116/2005/ND – CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh “1. Doanh nghiệp đang trong nguy cơ bị giải thể là doanh nghiệp thuộc trường hợp giải thể theo quy định của pháp luật hoặc theo điều lệ của doanh nghiệp nhưng chưa tiến hành thủ tục giải thể hoặc đang tiến hành thủ tục giải thể nhưng chưa có quyết định giải thể của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.”.
    “Lâm vào tình trạng phá sản” theo quy định của luật phá sản là “không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản”(3)
    Cơ sở để được hưởng miễn trừ trong trường hợp này xuất phát từ:
    Một là: doanh nghiệp này đang nằm trong nguy cơ bị giải thể hoặc lâm vào tình trạng phá sản. Nói cách khác, khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp này trên thị trường liên quan hầu như là không đáng kể. Cho nên việc có sáp nhập hay không sáp nhập thì cũng không làm thay đổi cấu trúc cạnh tranh trên thị trường một cách đột ngột.
    Hai là: Với việc cho phép doanh nghiệp được tiến hành các giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp đang nằm trong nguy cơ giải thể hoặc phá sản có thể không phải chấm dứt sự tồn tại. Vì thế quyền lợi cho các đối tác, chủ nợ, người lao động của doanh nghiệp sẽ không bị tác động lớn như trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản.
    Có thể thấy khi một doanh nghiệp có nguy cơ giải thể hay lâm vào tình trạng phá sản có nghĩa là tình hình kinh doanh của doanh nghiệp đang rất trì trệ, thua lỗ. Nếu không tiến hành các hoạt động tập trung kinh tế thì doanh nghiệp đó sẽ phá sản và chấm dứt sự tồn tại của mình trên thương trường. việc mất đi một doanh nghiệp kéo theo nhiều hệ quả tiêu cực cho kinh tế và cho xã hội như thiếu hụt sản phẩm, thất nghiệp, ảnh hưởng đến doanh nghiệp khác Như vậy tổn hại do việc giải thể hay phá sản của doanh nghiệp đó lơn hơn nhiều so với ảnh hưởng của việc tập trung kinh tế gây hạn chế cạnh tranh.
    2.2.2. Việc tập trung kinh tế có tác dụng mở rộng xuất khẩu hoặc góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật, công nghệ.
    Theo đó, để có thể được hưởng cơ chế miễn trừ các bên có liên quan phải chứng minh rằng kết quả của giao dịch mua bán sáp nhập có tác dụng tốt đối với xã hội thông qua việc mở rộng xuất khẩu hoặc phát triển kinh tế xã hội hoặc góp phần phát triển tiến bộ khoa học kĩ thuật. có thể thấy:
    Một là với tư cách là cơ sở để áp dụng miễn trừ đối với các giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp bị cấm nhưng lại thiếu đi các tiêu chí cụ thể để áp dụng trên thực tế. Thực tế các bên có liên quan sẽ rất khó khăn trong việc lí giải thế nào là có tác dụng mở rộng xuất khẩu. Cũng như vậy, sẽ rất khó khăn khi phải giải thích thế nào là góp phần phát triển kinh tế - xã hội, tiến bộ kỹ thuật công nghệ.
    Hai là kết quả của việc thiếu vằng hệ thống các tiêu chí để lượng hóa các trường hợp miễn trừ các giao dịch mua bán sáp nhập doanh nghiệp theo qui định tại khoản 2 điều 29 dễ dẫn đến một trong hai khuynh hướng sau trong cách hành xử của cơ quan cạnh tranh với các bên có liên quan trong việc xem xét cho hưởng miễn trừ đối với các giao dịch mua bán, sáp nhập doanh nghiệp bị cấm: hoặc là dễ dãi trong việc cho hưởng miễn trừ hoặc không cho hưởng miễn trừ mặc dù có thể giao dịch mua bán sáp nhập có nhiều lợi ích đối với nền kinh tế hơn là những tác hại mà chúng mang lại.
    C. KẾT LUẬN
    Miễn trừ là một ưu đãi mà nhà nước đưa ra cho các doanh nghiệp đề thự hiện đầy đủ nguyên tắc tự do kinh doanh và thể hiện sự linh hoạt trong quy định về các hành vi hạn chế cạnh tranh. Cũng như nhiều quy định khác, những quy định này vẫn có những thiếu sót nhất định về câu chữ hay về quy định chưa đầy đủ, cụ thể, làm việc áp dụng trở nên khó khăn. Trong giới hạn cho phép của bài viết em xin đưa những ý kiến về nội dung quy định về các trường hợp miễn trừ đối với hành vi hạn chế cạnh tranh bị cấm và nhận xét sự hợp lý cũng như chưa hợp lý của một số quy định và nêu được bản chất, cơ sở cho việc quy định những trường hợp miễn trừ này.

    DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

    (1) Giáo trình Luật cạnh tranh, Trường đại học luật Hà nội
    (2) Giáo trình luật cạnh tranh, trường đại học kinh tế - luật.
    (3) Luật cạnh tranh 2004.
    (4) Nghị định 116/2005/ND – CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh
    (5) Luật phá sản 2004
    (6) Bàn về căn cứ miễn trừ đối với giao dịch mua bán, sát nhập doanh nghiệp bị cấm theo pháp luật cạnh tranh. (http://thongtinphapluatdansu.wordpress.com)


    [HR][/HR][1] Doanh nghiệp nhỏ và vừa: bước tiến lớn ( www.chinhphu.vn ) ngày 06/01/2011


    [2] Đảng Cộng sản Việt Nam, sđd, tr 162
     

    Các file đính kèm:

Đang tải...